Liên kết website

Thống kê truy cập

Thông báo

TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ CHẾ LÀ (1949-2010)

04/11/2022 15:17 38 lượt xem

TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ CHẾ LÀ (1949-2010)

                      

CHỈ ĐẠO NỘI DUNG

 BAN THƯỜNG VỤ ĐẢNG ỦY

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

LY VĂN LONG

BIÊN SOẠN:

.............................

............................

................................

.................................

LỜI GIỚI THIỆU

          Chế Là là một xã nằm ở vị trí phía Nam của huyện Xín Mần, trong thời kỳ cách mạng tháng 8.1945 xã Chế Là là một trong những địa phương có phong trào đấu tranh cách mạng sôi nổi của huyện Xín Mần nói riêng và của Tỉnh Hà Giang nói chung. Là một xã có vị trí quan trọng về chiến lược quân sự cho nên thực dân pháp đã cho xây những lô cốt để phòng thủ nhằm chống lại lực lượng cách mạng ta. Nơi đây cũng là nơi bọn thổ phỉ ẩn náu hoạt động chống phá cách mạng nhiều nhất. Đồng bào các dân tộc nơi đây trong những ngày tháng đấu tranh ấy đã nêu cao tinh thần đấu tranh cách mạng kiên cường, không quản hy sinh, ra sức ủng hộ cách mạng, đánh pháp, tiễu phỉ, bảo vệ làng bản quê hương, ảnh hưởng cách mạng được lan rộng nhanh chóng góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng tháng 8.1945.

          Trên cơ sở những truyền thống yêu nước cách mạng vốn có của cha ông để lại, nhân dân các dân tộc xã Chế Là không ngừng phát huy những truyền thống đó qua các thời kỳ kháng chiến chống pháp, chống đế quốc mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới. Không ngừng có những đóng góp không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

          Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trực tiếp là Đảng bộ Huyện Xín Mần, đồng bào các dân tộc trong xã, luôn phát huy tinh thần đoàn kết sáng tạo trong lao động sản xuất, khắc phục mọi khó khăn tô đậm thêm giá trị về truyền thống lịch sử đấu tranh lao động sản xuất, đời sống văn hoá tinh thần trong quá khứ của cha ông.

          Được sự giúp đỡ của Ban tuyên giáo Huyện uỷ. Ban thường vụ huyện uỷ đã tạo điều kịên cho xã tìm hiểu, sưu tầm các nhân chứng lịch sử, các bậc lão thành cách mạng của xã viết lại truyền thống đấu tranh – xây dựng vẻ vang của đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã. Góp phần khơi dậy lòng tự hào, củng cố niềm tin cho thế hệ hôm nay và thế hệ mai sau. Tiếp tục đóng góp công sức, trí tuệ cho công cuộc xây dựng cuộc sống mới ở xã Chế Là.

          Trong quá trình sưu tầm tư liệu, các nhân chứng lịch sử có phần gặp khó khăn vì phần nhiều đã mất, hoặc có những người còn sống nhưng sức khoẻ yếu nên không thể hồi tưởng hết các sự kiện đã diễn ra. Bởi vậy, việc biên soạn cuốn sách chắc chắn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.

          Xin trân trọng giới thiệu đến các đồng chí và bạn đọc cuốn sách này. Chúng tôi rất mong nhận được sự lượng thứ và đóng góp ý kiến thêm của các đồng chí cùng bạn đọc để cuốn sách hoàn thiện trong những lần tái bản sau.

          Ban thường vụ Đảng uỷ xã xin chân thành cảm ơn!

   

Tháng ... năm 2012

TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XẪ

BÍ THƯ

Ly Văn Long

                

PHẦN MỘT

VÀI NÉT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI

- CON NGƯỜI XÃ CHẾ LÀ

Xã Chế Là nằm ở phía Nam Huyện Xín Mần - Tỉnh Hà Giang, cách Huyện lỵ .... km. Phía Tây giáp xã Nấm Dẩn; phía Bắc giáp xã Tả Nhìu; phía Đông giáp xã .... - Huyện Hoàng Su phì; phía Bắc giáp xã Quảng Nguyên, Nà Chì. Chiều dài của xã từ thôn ...., giáp với xã ..... kéo dài đến thôn.... giáp với xã ..., có tổng chiều dài ....km, chiều rộng từ thôn ...., giáp với xã .... đến thôn ..., giáp với xã, dài ...km.

Tên gọi Chế Là, có nhiều cách lý giải theo ngôn ngữ của người dân địa phương là (Chiết La), nghĩa là ...... Mảnh đất Chế Là, trước kia là một vùng rộng lớn, bao gồm các xã Nấm Dẩn, Tả Nhìu và Cốc Rế. Đến ngày 13/12/1962, thực hiện nghị định của Hội đồng Chính phủ, Chế Là được chia tách thành 4 xã, gồm: Chế Là; Nấm Dẩn; Cốc Rế và Tả Nhìu...

Địa hình Chế Là được cấu tạo khá đa dạng, phức tạp, có độ dốc lớn, nhiều khe sâu chia cắt, có con suối lớn bắt nguồn từ rừng nguyên sinh Đèo Gió và chảy qua ngăn cách giữa xã với xã Nấm Dẩn...

Tổng diện tích tự nhiên là 2.789ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm ....ha, đất lâm nghiệp chiếm ....ha, đất chuyên dùng ...ha, đất ở là ... ha, còn lại là đất rừng đầu nguồn, khe sâu, đất đồi núi trọc là .... ha.

Khí hậu của Chế Là chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, oi bức bất thường, mưa gió đột ngột. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, khô hanh giá buốt; vào khoảng tháng 2, tháng 3 hay có mưa đá, mưa tuyết, sương muối và rét đậm. Sách Đại Nam nhất thống chí đã mô tả khí hậu ở vùng này là: mùa hè và mùa thu thường mưa nhiều; mùa đông và mùa xuân thường âm u. Mỗi khi mưa lâu tiếp đến ngày nắng thì khí nóng khác thường. Đến tiết sương giáng thường có gió rét; tháng 3 và tháng 9 khí nóng nung nấu, nhiều người bị cảm. Nhà nông thường xem ngày 8 tháng 4 (âm lịch) có mưa hay không để xếp đặt công việc làm ruộng cũng có phần ứng nghiệm. Có câu ngạn ngữ rằng: Ngày 8 tháng 4 không mưa, ruộng trũng đừng bừa, đi phát ruộng cao.[1]

Sự khắc nghiệt của khí hậu đã gây nên nhiều khó khăn cho nhân dân các dân tộc trong các lĩnh vực sinh hoạt, sản xuất, an ninh và giao lưu văn hóa.

Là một xã vùng cao, nằm ở phía Nam của Huyện, xã Chế Là có nhiều tiềm năng cho việc phát triển lâm nghiệp và các cây công nghiệp dài ngày, với hơn ...... ha đất rừng nguyên sinh, ..... ha đất lâm nghiệp và hơn .... ha đất trồng cây công nghiệp dài ngày (cụ thể là ..... diện tích đất đã trồng chè - Một trong những cây công nghiệp thuộc thế mạnh của xã). Trước đây, rừng Chế Là rừng nguyên sinh, trên rừng có hệ động thực vật phong phú và đa dạng về chủng loại. Thảm thực vật gồm có nhiều gỗ quý, như: Ngọc am;....

          Đến nay do sự khai thác quá mức của con người, nên đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sự đa dạng về số lượng, của hệ thống động thực vật tự nhiên nơi dây, có nhiều loài dường như không còn trên địa bàn như; hổ, báo…hiện nay rừng trên địa bàn xã chủ yếu là rừng tái sinh. để bù lại sự khai thác bừa bãi không có kế hoạch trước đây, đồng thời thực hiện những chủ trương của nhà nước về phát triển rừng. đảng bộ, chính quyền, nhân dân trong xã đã và đang tăng cường phủ xanh đất chống đồi núi trọc, đẩy mạnh giao đất, giao rừng đến hộ gia đình. từ đó không ngừng tạo nên độ che phủ của rừng trên địa bàn xã.

          Tất cả những điều kiện đó đã tạo ra những khó khăn không nhỏ trên con đường phát triển của xã. Điều này đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong xã cần tiếp tục cố gắng và nỗ lực hơn nữa trong việc khắc phục khó khăn, đồng thời tìm ra hướng phát triển thích hợp cho mình.

          Hệ thống đường giao thông trên địa bàn hiện nay đang được phát triển mạnh, ngoài con đường quốc lộ chạy từ Huyện về xã (qua xã Tả Nhìu) hiện đang thi công, thì hệ thống giao thông liên thôn bản, đường từ Chế Là đi các xã lân cận cũng được thông suốt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế - văn hóa - xã hội của nhân dân trong xã. Bên cạnh đó là những yếu tố thuận lợi được đem lại từ sự hoàn thiện cơ bản của hệ thống hạ tầng cơ sở xã, như: trụ sở, trường học, trạm y tế ....cũng đã góp phần phục vụ cho đời sống của đồng bào các dân tộc nơi đây ngày một phong phú hơn.

          Hiện nay Chế Là có ... thôn bản bao gồm: ......

          Chế Là là một xã có 2 dân tộc anh em cùng sinh sống. Hiện nay, theo số liệu thống kê của Cục Thống kê Huyện Xín Mần (năm 2011) dân số của toàn xã là ...... người. Bao gồm dân tộc Nùng, H’ Mông, trong đó đồng bào người ..... có số dân đông nhất, chiếm ....% dân số trong toàn xã.

          Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, trong quá trình lao động và sáng tạo, chinh phục tự nhiên không biết mệt mỏi, con người nơi đây đã tạo dựng cho mình một thế ứng xử với tự nhiên - xã hội để tồn tại và không ngừng phát triển. Trong quá trình phát triển ấy đồng thời cũng tạo ra những nét bản sắc văn hóa của từng dân tộc thống nhất trong một cộng đồng, qua đó đã tạo ra một tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương. Tinh thần này càng được thể hiện một cách mạnh mẽ từ khi có Đảng chỉ lối.

          Những năm cuối thập kỷ 30, đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, khi màn đêm của chủ nghĩa thực dân phong kiến vẫn còn bao trùm dầy đặc trên đất nước ta. Khi đó, vùng Xín Mần (lúc này Xín Mần thuộc Huyện Hoàng Su Phì) chưa có cơ sở Đảng, lúc này mọi hoạt động của địa phương trong đấu tranh cách mạng, giành và củng cố bảo vệ chính quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cán bộ Việt Minh. Đặc biệt, từ khi có chi bộ Đảng đầu tiên ở Hoàng Su Phì cũng đồng thời khi ấy ánh sáng cách mạng của Đảng đã bắt đầu nhen nhóm ở vùng Xín Mần. Từ người cách mạng đầu tiên là đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh), đồng chí Tu, đồng chí Minh, đến với Hoàng Su Phì để vận động, giác ngộ tinh thần cách mạng của nhân dân và được bà con các dân tộc Chế Là nói riêng đùm bọc và một lòng ủng hộ. Từ đó đã dần xây dựng được căn cứ cách mạng vững chắc, tạo thế bàn đạp cho việc đánh Pháp, tiễu phỉ và bọn thổ ty tay sai, giải phóng Huyện Hoàng Su Phì, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954.

          Cách mạng tháng tám thành công. Ở Hà Giang cũng như trong cả nước, nước nhà tuyên bố độc lập và miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng bào các dân tộc xã Chế Là tự hào và phấn khởi vì đã góp công sức của mình cho chiến thắng chung. Trong những giai đoạn tiếp theo qua các cuộc kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, xây dựng địa phương, nhân dân xã Chế Là đã không ngừng tham gia đóng góp về sức người, sức của cùng cả nước làm nên những thắng lợi to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã có hàng trăm người con của xã lên đường tham gia chiến đấu, trong đó có ... người đã hy sinh vì Tổ quốc và ... người là thương bệnh binh.

          Cùng với truyền thống lao động và đấu tranh, trong đời sống xã hội của đồng bào nhân dân xã Chế Là còn chứa đựng nhiều bản sắc văn hóa đa dạng và phong phú. Sau mỗi mừa vụ, vào những dịp lễ hội, tết... đồng bào nơi đây thường tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian vui nhộn, như: lễ hội ...... Ngoài ra, còn có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống mang tính tập thể của từng dân tộc hoặc cũng có nhiều yếu tố truyền thống đặc sắc mà đến nay vì nhiều lý do tác động đã bị mai một. Ngày nay, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, cùng sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc Chế Là đã không ngừng được nâng lên, nhân dân trong xã đã được hưởng những phúc lợi về vật chất, tinh thần, như: điện lưới Quốc gia; hệ thống đường giao thông... Việc thực hiện các phong trào văn hóa, gia đình văn hóa đã được thực hiện và đạt được những kết quả tốt đẹp, nếp sống văn hóa mới mỗi ngày được xây dựng vững chắc.

          Trong công cuộc đổi mới hiện nay, phát huy truyền thống đấu tranh, xây dựng của địa phương, thực hiện chỉ đạo của Đảng mà trực tiếp là Đảng bộ Huyện Xín Mần, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là đã và đang cố gắng phấn đấu, nhằm xây dựng quê hương cách mạng trở thành một địa phương giàu đẹp, văn minh.

PHẦN II

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG

 DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

(1945 - 2010)

I- NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ CHẾ LÀ TRONG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP 1945 - 1954

1. Nhân dân các dân tộc xã Chế Là trong cuộc đấu tranh giành chính quyền - Cách mạng tháng tám năm 1945

Ngày 3 tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đã tạo bước ngoặt mới cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam. Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam với mục tiêu là đánh đuổi đế quốc xâm lược, đánh đổ bọn phong kiến tay sai làm cho nước nhà độc lập, dân được tự do để đi tới chủ nghĩa xã hội có sức mạnh tập hợp, cổ vũ mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân như: công nhân, nông dân, các dân tộc thiểu số, đoàn kết tranh thủ các giai cấp và tầng lớp khác có tinh thần dân tộc vào mặt trận chung chống đế quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và nhanh chóng lan ra châu Âu, châu Á, châu Phi, đẩy loài người vào cuộc tàn sát mới. Ở Pháp, Chính phủ ban bố lệnh động viên sức người, sức của, kể cả ở các nước phụ thuộc và thuộc địa, phục vụ cho cuộc chiến tranh.    

Ở Đông Dương, bọn phản động thuộc địa đã tăng cường khủng bố phong trào cách mạng, thẳng tay đàn áp nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương. Khắp nơi diễn ra cảnh tàn sát, khủng bố dã man. Đứng trước tình thế đó, Đảng ta rút hẳn vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn. Tháng 11 năm 1939, Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ sáu, quyết định chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, tập trung vào nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thành lập Mặt trận phản đế Đông Dương.

Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp nhằm độc chiếm Đông Dương. Ngay đêm hôm đó, Trung ương Đảng ra chỉ thị lịch sử “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Đảng đã phân tích cuộc đảo chính đó là biểu hiện cuộc khủng hoảng chính trị sâu sắc của Pháp, Nhật ở Đông Dương và nêu rõ “Sau đảo chính này phát xít nhật sẽ là kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương”.[2]

Trung ương Đảng đã chỉ rõ: Phải phát động một cao trào kháng Nhật mạnh mẽ dưới nhiều hình thức, làm tiền đề cho Cuộc tổng khởi nghĩa và sẵn sàng chuyển sang hình thức Tổng khởi nghĩa giành chính quyền một khi có đủ điều kiện.

Từ cuối tháng 4 đến đầu tháng 5 năm 1945, trước phong trào cách mạng của dân tộc ta với khí thế mạnh mẽ đang lan rộng, Nhật thấy khó có thể tồn tại nếu lực lượng của chúng dàn mỏng khắp mọi nơi trong tỉnh. Vì vậy, chúng đã rút bỏ những vị trí nhỏ, tập trung lực lượng về những đồn bốt quan trọng thuộc các thị trấn, thị xã. Cùng lúc đó, bọn Quốc dân đảng tràn vào địa phương, ra sức vơ vét cướp bóc của cải của nhân dân vùng Xín Mần nói chung, xã Chế Là nói riêng, khiến nhân dân trong vùng càng thêm điêu đứng, khổ cực.

Tháng 3-1945, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo việc phát triển thêm cơ sở Việt Minh ở Hà Giang. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Lê Tâm (tức Lê Quảng Ba) và Nam Hải (tức Bế Triều) lãnh đạo đến Hà Giang tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng về kháng Nhật cứu nước, gây cơ sở Việt Minh, đẩy mạnh phong trào cách mạng để chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Ngày 4-6-1945, Hà giang nhập Khu giải phóng, một khu căn cứ cách mạng rộng lớn bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái.

Ngày 10-8-1945, phát xít Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng Minh vô điều kiện. Nắm lấy thời cơ có một không hai, ngày 12-8-1945, Ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng ra lệnh cho giải phóng quân, các lực lượng vũ trang tự vệ, chính quyền các cấp và nhân dân trong Khu đứng lên khởi nghĩa.

Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc tại Tân Trào (Sơn Dương, Tuyên Quang) ra lời kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên làm cuộc khởi nghĩa, giành độc lập, tự do. Liền sau đó, ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào đã khai mạc Quốc dân Đại hội. Trong bầu không khí khẩn trương, hào hùng Quốc dân Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh chủ trương của Trung ương Đảng về việc phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền, thông qua lệnh tổng khởi nghĩa của Ủy ban khởi nghĩa và mười chính sách của Mặt trận Việt Minh thực hiện trong Khu giải phóng được coi là chính sách cơ bản của chính quyền cách mạng sau khi thắng lợi. Đại hội định ra quốc kỳ, quốc ca, và cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng, còn gọi là Chính phủ lâm thời, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên làm cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, giành chính quyền trong phạm vi cả nước. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Những sự kiện lịch sử trọng đại này đã tác động mạnh đến phong trào cách mạng của Hà Giang. Nhân dân trong tỉnh càng thêm tin tưởng và đi theo con đường cách mạng do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra.

Ngày 29-8-1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều 30-8-1945, quân đội Tưởng kéo vào Bản Máy, Xín Mần, Khuôn Lùng... Đi đến đâu, chúng đều cướp lương thực, thực phẩm, bắt nhiều người đi phục dịch gây nên lòng căm thù cao độ trong nhân dân các dân tộc trong Huyện. Ngày 5-11-1945, huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Thắng lợi này đã dội đến vùng Xín Mần trong đó có nhân dân xã Chế Là, đã tạo thêm niềm phấn khởi, với một ý chí giành độc lập, tự do; đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa thổ ty, cường hào địa phương với tàn quân Quốc dân Đảng ngày càng thêm sâu sắc. Chớp được thời cơ, ta đưa 2 tiểu đội từ Bắc Quang tiến vào giải phóng Hoàng Su Phì. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, căng thẳng và không cân sức giữa một bên là quân ta với vũ khí thô sơ và không đầy đủ với một bên là bọn Quốc dân đảng có lực lượng đông với nhiều vũ khí lại dựa vào bọn phản động tay sai. Nhưng với lòng dũng cảm, kiên cường, quân ta đã đánh quyết liệt, đánh đến cùng, đồng thời ta vừa tiếp tục tổ chức bao vây địch, vừa động viên thuyết phục, tuyên truyền giác ngộ đồng bào theo cách mạng. Nhân dân phấn khởi ủng hộ bộ đội lương thực, thực phẩm, may cờ đỏ sao vàng… Địch bị cô lập cao độ, đêm 12-11-1945, chúng bỏ chạy sang Trung Quốc. Ngày 13-11-1945, ta làm chủ huyện lỵ Hoàng Su Phì. Ngày 15-11-1945, nhân dân Hoàng Su Phì họp mít tinh chào mừng quê hương được giải phóng. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên bầu trời huyện Hoàng Su Phì. Nhân dân các dân tộc ở Hoàng Su Phì, trong đó có xã Chế Là, bắt đầu làm chủ cuộc sống của mình.

Nhận rõ tình hình khó khăn phức tạp của một huyện xa trung tâm của tỉnh, liên tục bị bọn đế quốc, bọn phản động tay sai xâm chiếm, tàn phá, chưa từng có cơ sở cách mạng, sau ngày giải phóng, Đảng bộ Hà Giang đã quan tâm đưa cán bộ, đảng viên tới cùng nhân dân các dân tộc địa phương nhanh chóng xây dựng chế độ mới. Vận dụng linh hoạt chính sách dân tộc của Đảng vào hoàn cảnh của một huyện có thổ ty lâu đời, mới chịu ảnh hưởng của cách mạng, ta đã xây dựng kiểu chính quyền quá độ bằng cách phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời dựa vào một số quan lại cũ có uy tín theo phương châm “qua trên nắm dưới”. Ngày 18-11-1945, ta đã thành lập xong Ủy ban hành chính huyện, Vương Văn Đường được ta giới thiệu làm Chủ tịch, Vương Văn Thịnh làm cố vấn. Từ đó, các cơ quan chuyên môn của chính quyền địa phương được thành lập, tổ chức Việt Minh và các đoàn thể Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v. lần lượt ra đời ở các xã… góp phần tăng cường sức mạnh của chính quyền dân chủ nhân dân.

Ngày 25-12-1945, thị xã Hà Giang được giải phóng, Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Hà Giang thành lập do đồng chí Thanh Phong làm Chủ tịch. Cùng ngày, Xứ ủy Bắc Kỳ quyết định thành lập Đảng bộ Hà Giang. Ban chấp hành lâm thời gồm có 5 đồng chí: Hồng Quân, Thanh Phong, Huyền Quỷnh, Trần Tùng, Khải Ca, do đồng chí Hồng Quân làm Bí thư.....

2. Quân và dân xã Chế Là tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp, tiễu trừ thổ phỉ và thành lập chi bộ Đảng Chế Là (1945-1954)

Ngày 6-1-1946, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân các dân tộc ở Hoàng Su Phì, trong đó có nhân dân các dân tộc xã Chế Là, vui mừng phấn khởi tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với cuộc bầu cử này, nhân dân các dân tộc xã Chế Là thực sự được hưởng quyền dân chủ, tự mình góp phần xây dựng chính quyền nhân dân.

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền đã thuộc về nhân dân. Phấn khởi trước thắng lợi của cách mạng chưa được bao lâu cũng như đồng bào cả nước, nhân dân các dân tộc vùng Xín Mần, trong đó có xã Chế Là lại tiếp tục đương đầu với những khó khăn, thách thức vô cùng to lớn. Đó là nạn thù trong, giặc ngoài. Ở miền Nam Việt Nam, quân đội Anh vào Sài Gòn, theo sau chúng là quân đội Viễn chinh Pháp.

Ở miền Bắc, cuối tháng 8.1945, hai mươi vạn quân Tưởng núp dưới danh nghĩa quân đồng minh kéo vào giải giáp quân đội Nhật, âm mưu của chúng là tiêu diệt Đảng và chính quyền cách mạng mà nhân dân ta mới giành được.

Ngày 29-8-1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều 30-8-1945, bọn Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch đã tràn qua biên giới vào chiếm Na - Chô - Cai (Nghĩa Thuận). Một toán quân Tưởng theo đường Thanh Thủy vào chiếm đóng thị xã Hà Giang, chúng chiếm các đồn từ biên giới đến thị xã và hãm hiếp phụ nữ, cướp bóc dã man các bản làng nơi chúng đi qua. Chúng câu kết với bọn thổ ty phản động, che trở cho bọn Việt gian Quốc dân Đảng. Tại thị xã Hà Giang, chúng lập ra tỉnh Đảng bộ Việt Nam Quốc dân Đảng do Hoàng Quốc Chính làm chủ nhiệm. Chúng dựng lên một chính quyền phản động do một tên tay sai Nhật làm tỉnh trưởng. Sau khi chiếm được thị xã Hà Giang, chúng tung quân đi chiếm các đồn lẻ ở dọc biên giới và dựng lên chính quyền tay sai ở các địa phương do bọn cường hào, địa chủ, thổ ty nắm giữ.

Thời kỳ này, vùng Xín Mần nói chung, xã Chế Là nói riêng cũng nằm trong cùng chiếm đóng của bọn Quốc dân Đảng do tên ..... cầm đầu. Bên cạnh là một lũ tay sai, chúng chia nhau quản lý các thôn, bản rất chặt chẽ nên việc xây dựng cơ sở cách mạng và tuyên truyền giác ngộ cách mạng cho quần chúng gặp nhiều khó khăn.

Trước tình hình trên, chính quyền cách mạng ở Hoàng Su Phì một mặt tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng: ra sức chống giặc ngoại xâm, diệt giặc đói, diệt giặc dốt, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân. mặt khác giúp đỡ nhân dân ổn định đời sống, phát triển sản xuất, thành lập quận công an nhằm củng cố, xây dựng lực lượng đấu tranh phản cách mạng tiêu diệt bọn gián điệp, chỉ điểm, đặc vụ.

Sau hiệp ước Hoa - Pháp ký kết ngày 28-2-1946, tháng 3-1946, Pháp đưa quân ra bắc, để tranh thủ thời gian hoà hoãn xây dựng lực lượng. Trung ương Đảng và Chính phủ ta đã ký hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và bản tạm ước (14-9-1946). Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân pháp ngang nhiên vi phạm hiệp định và tạm ước, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược. Trước tình hình đó, Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động cả nước kháng chiến. Đêm 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Sáng 20-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh truyền khắp cả nước: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ...”. Ngày 22-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến.

Thực hiện chỉ thị của Đảng, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở Hà Giang, Đảng bộ tỉnh tập trung vào kiện toàn bộ máy lãnh đạo, thành lập Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang và một số cơ quan giúp việc cho cấp ủy và chính quyền. Đảng bộ tỉnh còn tích cực xúc tiến việc thành lập các tổ chức cơ sở đảng, tăng cường cán bộ, đảng viên nòng cốt cho các huyện của tỉnh, chú trọng tới công tác xây dựng và phát triển đảng trong quần chúng, chuẩn bị lực lượng để kháng chiến lâu dài. Đặc biệt, để kịp thời lãnh chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa tiễu trừ bọn thổ phỉ đang hoạt động mạnh ở khu vực phía Tây của Tỉnh, ngày 16-5-1947, Tỉnh uỷ Hà Giang đã ra quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Hoàng Su Phì và chỉ định đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh) làm Bí thư Chi bộ.

Sự ra đời của Chi bộ Đảng ở Hoàng Su Phì đánh dấu bước ngoặt lớn trong quá trình phát triển phong trào cách mạng của huyện. Từ đây có sự chỉ đạo trực tiếp của chi bộ đảng, tạo điều kiện thúc đẩy phong trào cách mạng cùng cả tỉnh vững bước tiến lên trước những thử thách mới.

Ngay sau khi chi bộ ra đời, trước những khó khăn, thách thức của huyện, như: nền kinh tế kiệt quệ, đại đa số dân số mù chữ, bệnh tật hoành hành, các tổ chức quần chúng ở các xã còn đang trong quá trình hình thành, thêm vào đó là nạn thổ phỉ hoành hành, cướp bóc khắp nơi. Để kịp thời khắc phục những khó khăn, thách thức, Chi bộ đã tiến hành kiện toàn tổ chức các Hội cứu quốc và Ban Việt Minh từ xã đến huyện, chuẩn bị thành lập chính quyền xã, huyện và dựa vào các tổ chức quần chúng động viên nhân dân trong huyện tích cực tăng gia sản xuất, tham gia kháng chiến, xây dựng cuộc sống mới. Cùng với nhiệm vụ tổ chức chính quyền mới, chi bộ thường xuyên coi trọng việc trấn áp bọn phản động quấy nhiễu biên giới. Trong tháng 7 và tháng 8 năm 1947, ở biên giới thuộc vùng Xín Mần thường xảy ra các vụ cướp của, giết người như ở các xã Bản Máy, Xín Mần, Cốc Pài do bọn Quốc dân đảng và thổ phỉ gây ra. Ngày 24-9-1947, ở Lùng Chún, xã Khuôn Lùng xảy ra vụ loạn “cờ trắng” do Chảo Sành Phú, người Dao, cầm đầu. Phú đề ra khẩu hiệu “giết Tày lấy ruộng, giết Kinh lấy muối, giết Hán lấy bạc già” và tiến hành đốt nhà, cướp của, giết người hết sức dã man trên địa bàn rộng cả trong và ngoài huyện. Các xã Khuôn Lùng, Nà Khao, Yên Bình, Việt Vinh, Thông Nguyên, Nam Sơn, Trung Thịnh, Hồ Thầu chìm trong khói lửa, quằn quại trong cảnh đầu rơi máu chảy. “Thực chất của sự kiện này là mâu thuẫn sắc tộc bị khơi dậy. Dựa vào tình trạng dân trí còn hạn chế, các thế lực phản động đã tuyên truyền lừa bịp, xúi giục đồng bào tin, đi theo. Nắm được âm mưu và thủ đoạn của địch, chúng ta không thể coi những người đi theo “cờ trắng” là kẻ thù, nên cần giải quyết sớm không để cho Pháp kịp thời lợi dụng cơ hội nhúng tay vào gây chia rẽ dân tộc”[3]. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Khu ủy: dùng lý lẽ thuyết phục là chính, không nên dùng vũ lực để giải quyết, ta đã cử cụ Nguyễn Văn Vinh (tức Đặng Tằng Dùng) là người có uy tín trong vùng, đi vào các xã Tân Lập, Thông Nguyên, Khuôn Lùng tuyên truyền, giác ngộ một số người Dao hạ cờ trắng, treo cờ đỏ sao vàng, đồng thời thực hiện chính sách cứu đói cho đồng bào trong vùng cờ trắng. “Do có chủ trương, biện pháp đúng, cán bộ, chiến sĩ được các bậc phụ lão có uy tín trong địa phương giúp đỡ thuyết phục, lại được nhân dân giác ngộ và ủng hộ, lực lượng “cờ trắng” đã bị ta ngăn chặn, nên lực lượng này đã bị tan rã”[4]. Ngày 24-4-1948, Chảo Sành Phú cùng 12 tên đầu sỏ ra hàng Việt Minh. Đây là một thành tích lớn của ta tạo nên được khối đoàn kết vững chắc giữa các dân tộc cùng chung sức diệt thù, phá tan âm mưu thâm độc của thực dân Pháp, làm cho nhân dân yên tâm lao động sản xuất.

Đầu tháng 12 năm 1947, với sự giúp đỡ của thực dân Pháp, bọn thổ phỉ lại tiếp tục quay lại chống phá vùng Xín Mần, trong đó có xã Chế Là. Ngày 15-12-1947, Voòng Sán, Mùi Lao Tả được Pháp giúp sức với hỏa lực mạnh cùng với 400 quân đánh chiếm đồn Cốc Pài. Sau 36 giờ chống trả quyết liệt, song do lực lượng của ta quá mỏng, cả trung đội do đồng chí Nguyễn Thơ chỉ huy đã anh dũng hy sinh, bọn phỉ chiếm lại đồn Cốc Pài, từ đó chúng đánh chiếm tiếp đồn Xín Mần, Bản Máy. Lúc này, lực lượng của ta chuyển về đóng tại Bản Díu và Chiến Phố để chặn đường tiến của địch về Hoàng Su Phì. Tại đây, lợi dụng địa hình phức tạp, với tinh thần quyết tâm trong chiến đấu bằng nhiều trận đánh lớn nhỏ, quân dân vùng Xín Mần, trong đó có quân dân xã Chế Là đoàn kết, tổ chức đánh trả nhiều trận trên đất Cốc Pài, Chế Là, Tả Nhìu, Ngán Chiên, Bản Díu, Trung Thịnh, v.v., góp phần tiêu hao nhiều sinh lực địch, không cho Pháp thực hiện nhanh chóng kế hoạch “vết dầu loang” của chúng.

Đầu năm 1948, sau khi Pháp thất bại trong Chiến dịch Sông Lô, buộc chúng phải rút khỏi Tuyên Quang, Việt Trì, mặt trận chính của Liên khu 10 chuyển sang hướng tây – bắc gồm các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Mai Đà (Hòa Bình) và tây – nam Phú Thọ. Tỉnh Hà Giang nói chung, Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần nói riêng nằm trong âm mưu của Pháp bao vây, khống chế vùng biên giới. Phong trào cách mạng ở đây gặp nhiều khó khăn, phần đông cán bộ, đảng viên, du kích của ta phải bật ra vùng tự do. Đối với nhân dân ở những nơi gần đồn bốt địch, chúng cướp phá, cấm dân làm nương, ruộng bỏ hoang, làm cho đời sống hàng ngày cơ cực, túng đói.

Thực hiện kế hoạch chiếm giữ vùng biên giới, địch tăng cường các hoạt động quân sự và chính trị ở Hoàng Su Phì. Tới ngày 1-4-1948, thực dân Pháp được bọn phản động địa phương dẫn đường đánh chiếm toàn bộ Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần. Mặc dù bộ đội và du kích tổ chức chặn đánh địch quyết liệt, song với ưu thế hơn hẳn về lực lượng, vũ khí, địch tạm thời giành thắng lợi. Từ tháng 5 đến tháng 9-1948, bọn thổ ty lần lượt nhảy ra làm tay sai cho Pháp. Pháp lập nên bộ máy ngụy quân, ngụy quyền gồm các lý trưởng, phó lý, binh đầu, mù lao cũ như: Châu Đường, Vương Văn Hòa chống lại cuộc kháng chiến của ta. Âm mưu của chúng là thực hiện chính sách chia để trị. Chúng tuyên truyền cho việc thành lập “xứ Nùng tự trị”, “xứ Mèo tự trị”, đề cao thổ ty, nói xấu Việt Minh, chia rẽ, gây mất đoàn kết dân tộc.

Thời kỳ này, xã Chế Là cũng nằm trong vùng chiếm đóng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai, do tên ..... cầm đầu. Chúng đã tổ chức các cuộc cướp phá, cấm dân làm nương, ruộng đất bỏ hoang. Ngoài ra, còn khuyến khích phát triển các hình thức mê tín, cờ bạc, rượu chè, cúng bái. Chúng tìm cách mua chuộc đồng bào các dân tộc để tìm diệt những người có cảm tình với cách mạng, khủng bố cơ sở cách mạng của ta, làm cho đời sống hàng ngày của nhân dân các dân tộc trong xã ngày cơ cực, túng đói.

Tháng 6-1948, được sự phối hợp của Trung ương và tỉnh bạn, quân và dân Hà Giang đã mở các chiến dịch đánh địch ở Lao Chải (Vị Xuyên), Yên Bình (Bắc Quang), Bản Qua (Hoàng Su Phì). Các đơn vị võ trang tuyên truyền của ta đi vào vùng tạm chiếm của địch tuyên truyền, vận động giác ngộ nhân dân dưới nhiều hình thức: nói chuyện chính sách, thắng lợi của Việt Minh, viết truyền đơn, cách chống khủng bố, chống đi phu, đi lính, không nộp thóc thuế, trừng trị những tên đầu sỏ mà dân oán ghét… gây cơ sở kháng chiến, củng cố lực lượng du kích, động viên nhân dân tham gia đánh địch.

Tháng 11-1948, ta tiến công chiếm đồn Bản Máy, Xín Mần buộc địch phải rút chạy.

Tháng 12-1948, địch phản kích, ta tạm rút khỏi Xín Mần, Bản Máy.

Từ ngày 1 đến ngày 24-1-1949, địch chiếm đóng xã Xín Mần và một số nơi khác của Hoàng Su Phì. Quân số của chúng có 654 tên do 10 tên Pháp chỉ huy, trang bị đầy đủ vũ khí.

Trong thời gian này, chiến sự diễn ra ác liệt, nhân dân các dân tộc xã Chế Là vẫn ở lại bám đất, bám làng. Thực hiện chủ trương của Trung ương và tỉnh Hà Giang, các cán bộ, đảng viên tiếp tục được tăng cường đi sâu vào vùng địch kiểm soát, trong đó có xã Chế Là để tuyên truyền, vận động, giác ngộ nhân dân vùng tạm chiếm. Ban địch vận được thành lập từ huyện xuống xã để giúp cấp ủy theo dõi, kịp thời rút kinh nghiệm chỉ đạo phong trào vùng tạm chiếm được sâu sát. 

Được giác ngộ, nhân dân trong vùng tạm chiếm, trong đó có nhân dân các dân tộc xã Chế Là hết lòng ủng hộ và tin tưởng vào kháng chiến. Họ chống bắt phu, bắt lính, không tiếp tế cho giặc. Lực lượng du kích đã xây dựng cơ sở và tổ chức chiến đấu ngay trong lòng địch. Lúc này, ở Xỉn Khâu - Chế Là thành lập được 1 trung đội du kích dân tộc Mông trang bị 12 khẩu súng do Giàng Seo Chú làm Trung đội trưởng, cùng với đó là tổ chức Liên Việt của xã cũng được gây dựng và phát triển… Các cuộc võ trang tuyên truyền diệt gian, tập kích quấy rối đồn bốt địch… nổ ra trên khắp địa bàn xã. Phong trào đánh du kích trong lòng địch đã làm cho địch thường xuyên ở thế bị động, góp phần gây dựng và phát triển cơ sở kháng chiến của ta ngay trong vùng địch tạm chiếm.

Để tăng cường sự lãnh chỉ đạo của Đảng đối với nhân dân các dân tộc vùng Xín Mần (thời kỳ này vùng Xín Mần chưa có chi bộ Đảng), đặc biệt là gây dựng và phát triển cơ sở cách mạng ngay trong vùng địch tạm chiếm, Ngày 6-9-1949, tại xóm Nặm Lỳ, xã Quảng Nguyên, chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam xã Chế Là được thành lập (đây là chi bộ xã đầu tiên của huyện Xín Mần sau này). Chi bộ có ba đảng viên do đồng chí Nguyễn Tiến Lộc làm Bí thư và hai đồng chí Lò Seo Vu và Thào Seo Sài là đảng viên cộng sản đầu tiên của xã. Chi bộ ra đời đã kịp thời đề ra những nhiệm vụ phát triển lực lượng trung kiên, lựa chọn quần chúng ưu tú để kết nạp vào Đảng; xây dựng lực lượng dân quân, phát triển phong trào cách mạng sâu rộng sang vùng đồng bào Nùng sinh sống và các dân tộc khác. Qua các phong trào cách mạng, Chi bộ Chế Là ngày càng phát triển. Đến tháng 12-1949, chi bộ Đảng xã Chế Là đã nâng tổng số đảng viên lên 9 đồng chí[5], góp phần nâng tổng số đảng viên trong toàn Huyện Hoàng Su phì lên 77 đồng chí.

Trước yêu cầu phát triển của phong trào cách mạng, ngày 1-1-1950, Huyện ủy Hoàng Su Phì được thành lập trên cơ sở tách chi bộ Hoàng Su Phì thành 5 chi bộ: chi bộ cơ quan, chi bộ dân quân, chi bộ công sở, chi bộ Hồ Thầu và chi bộ Chế Là. Sự lớn mạnh của Đảng bộ đã tập trung được tất cả yếu tố tinh thần và vật chất cùng quân dân trong huyện phối hợp chặt chẽ với tỉnh, khu, Trung ương tổ chức đánh những đòn quyết định bằng những chiến dịch từ tháng 6-1948 đến năm 1950. Sự thắng lợi của mỗi chiến dịch đã tạo ra áp lực quân sự để ta gây dựng thêm cơ sở cách mạng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng, vừa đẩy mạnh mọi mặt vừa chăm lo đến đời sống nhân dân.

Ngày 21-1-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba do Trung ương Đảng triệu tập đã đánh giá những tiến bộ của nhân dân ta trong thời gian qua và chỉ ra nhiệm vụ trước mắt của kháng chiến là: phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sự giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch trước mưu mô của đế quốc Mỹ - Anh, gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Hội nghị chủ trương thực hiện chế độ tổng động viên theo khẩu hiệu: “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy đã phát động nhân dân toàn tỉnh tích cực chuẩn bị sức người, sức của tham gia tổng phản công. Tại các huyện, các xã, trong đó có nhân dân các dân tộc xã Chế Là, đã tích cực chuẩn bị nhân tài, vật lực để tham gia chiến dịch phá tề vào đầu năm 1950.

Ngày 8-2-1950, cùng với chiến dịch phá tề đánh các bốt quan trọng, như: Hồ Thầu, Nậm Khòa, Nậm Ai, trung tâm Huyện lỵ Hoàng Su Phì... do tỉnh ủy phát động, quân và dân xã Chế Là đã chủ động phối hợp tác chiến với bộ đội chủ lực Hà Giang tiến công địch tại Nậm Yên và Xỉn Khâu, góp phần tiêu hao sinh lực địch, chặn đường rút lui của địch tại Trung Thịnh, giúp đỡ cho các bộ phận làm tốt công tác diệt tề và địch vận hoạt động ở Hồ Thầu, Bản Quảng . Đến tháng 3-1950, do ngụy quân, ngụy quyền hoang mang lo sợ, nên chúng không dám áp bức nhân dân nặng nề như trước, và chúng đã phải bỏ vị trí Bản Quảng, củng cố vùng giáp Bắc Hà để lấy đường rút. Lúc này, Chế Là cùng các xã Trung Thịnh, Bản Díu và Cốc Pài vẫn nằm trong vùng địch tạm chiếm. Để củng cố, chúng đã bổ sung quân cho 2 vị trí Nậm Yên, Xỉn Khâu.

Cùng thời gian này, tại Mặt trận Lê Hồng Phong ta giải phóng phố Lu, Nghĩa Đô. Tại biên giới Việt – Trung, Quân giải phóng Trung Quốc cũng đang tiến hành tiễu phỉ. Trước thắng lợi của ta, Pháp tăng quân cho những đồn tiền tiêu biên giới, vùng giáp cơ sở của ta ở Hồ Thầu, tiếp viện cho 2 vị trí Xín Mần, Bản Máy 2 trung đội. Những nơi quan trọng đều do Pháp chỉ huy. Chúng tăng cường phòng thủ các khu vực biên giới, vùng tiếp giáp cơ sở của ta và trên đường chúng rút về Bắc Hà.

Ngày 10-4-1950, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ nhất được triệu tập. Đại hội khẳng định tinh thần yêu nước của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ các dân tộc Hà Giang không quản ngại hy sinh, gian khổ, hết lòng hết sức tham gia kháng chiến. Đại hội xác định vị trí, vai trò, trách nhiệm của Hà Giang là tỉnh hậu phương, góp phần bảo vệ cho căn cứ địa Việt Bắc. Được Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh soi sáng, Đảng bộ Hoàng Su Phì ra sức đẩy mạnh mọi hoạt động.

Tháng 6-1950, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở rộng Chiến dịch Biên giới, đề ra yêu cầu chiến dịch là tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng vùng biên giới phía Bắc nước ta, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc tiến tới giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường.

Trong chiến dịch Biên giới, thực hiện chru trương của Đảng bộ Hoàng Su Phì về đẩy mạnh chiến trang du kích, phối hợp với bộ đội chủ lực, tiến công địch để giải phóng đất đai bị chiếm đóng, ngăn không cho địch tiến công mạnh bao vây thị xã Hà Giang. Ngày 14-4-1950, dân quân du kích Chế Là cùng với huyện phối hợp với bộ đội chủ lực gồm các tiểu đoàn 115 và 452 đánh chiếm được Xỉn Khâu, Hồ Thầu, Nặm Yên, lãnh đạo nhân dân diệt tề, gây cơ sở vào 10 gia đình và bắt mối vào vùng địch.

Tháng 5-1950, quân địch được tăng viện từ Bắc Hà với 300 tên, nâng tổng số quân địch tại Huyện Hoàng Su Phì lên 800 tên. Có được sự tăng viện, chúng đã tổ chức đánh lại ta và chiếm được Cốc Pài, Nặm Yên, Tà Phìn, Hồ Thầu. Đi đến đâu, chúng cũng khủng bố nhân dân ta ở những vùng có cơ sở cách mạng, đốt 30 nhà ở Hồ Thầu và giết người dã man, gây nên lòng căm phẫn trong nhân dân các dân tộc.

Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, ta tích cực chống khủng bố, bảo toàn chủ lực, giữ vững tinh thần bộ đội và nhân dân; tiến hành công tác chỉnh cán rèn quân đối với bộ đội chủ lực; ra sức bảo vệ vùng có cơ sở cách mạng và chuyển vào hoạt động bí mật, diệt tề, trừ gian, phục hồi các cơ sở bị chúng khủng bố, trong đó có Xỉn Khâu (Chế Là). Tổ chức bắt mối vào vùng địch chiếm đóng; tăng cường củng cố bộ đội địa phương, làm tốt nhiệm vụ bảo vệ dân và làm tốt công tác nghi binh…

Để tiến tới giải phóng Cao – Bắc – Lạng, cuối năm 1950, Trung ương tiếp tục mở rộng Chiến dịch Lê Hồng Phong (đợt II). Tháng 8-1950, Huyện ủy Hoàng Su Phì đóng tại xã Tân Trịnh (Bắc Quang) mở hội nghị nhận định: chiến dịch này có ảnh hưởng lớn tới địa phương. Lúc này ở Xín Mần không có quân chủ lực giúp đỡ, nhưng với tinh thần tự lực cánh sinh, chủ động đánh địch, Đảng bộ phát động quần chúng nổi dậy chặn đường, tiêu hao sinh lực địch. Song song với công tác quân sự, ta chú ý đến công tác binh vận, địch vận. Ta đã rải hàng nghìn tờ truyền đơn bằng chữ quốc ngữ và chữ Hán trong vùng địch tạm chiếm để vạch rõ tội ác của giặc Pháp và tay sai, kêu gọi binh lính ngụy quay trở về với nhân dân, gây dựng cơ sở.

Trước sức tấn công dữ dội và thắng lợi oanh liệt của ta ở Mặt trận Đông Bắc, Tây Bắc và Hoàng Su Phì, ngày 26-9-1950, quân Pháp rút khỏi huyện. Do sự không thống nhất giữa Đảng bộ huyện và Đảng ủy Tiểu đoàn 259 bộ đội địa phương nên ta đã bỏ lỡ thời cơ để địch rút lui theo đường Bản Díu sang Trung Quốc và Lào Cai một cách an toàn. Đây là một sai lầm của ta trong công tác lãnh đạo và phối hợp tác chiến.

Khi quân Pháp rút đến Xín Mần, chúng gọi tên Sần Chẩn Phù, Vàng Chẩn Diu tay sai đắc lực của chúng đến giao nhiệm vụ: tập hợp một số bọn phản động cũ quấy rối hậu phương kháng chiến của ta. Tên Vương Văn Đường cũng trốn theo Pháp và tham gia vạch kế hoạch cho bọn đầu sỏ phản động ở lại địa phương chống phá ta. Pháp đặt bọn phỉ ở Hoàng Su Phì dưới sự chỉ huy của tên Châu Quang Lồ (chi châu Mường Khương – Pha Long – Lào Cai).

Ngày 3-10-1950, sau khi Pháp rút khỏi Hoàng Su Phì, Tỉnh ủy Hà Giang họp bàn việc tiếp quản huyện lỵ. Thực hiện việc tiếp quản Hoàng Su Phì, ta đã thu được một số thắng lợi đáng kể, trừng trị tên Voòng Sán và 3 tên đầu sỏ ở phố Vinh Quang, 300 lính địch ra hàng, thu 300 súng, tịch thu tài sản của một số tên phản động…

Bên cạnh đó, ta còn có một số khuyết điểm như còn ấu trĩ trong việc chuyển giao chính quyền của địch thành của ta. Việc thực hiện tiếp quản và làm công tác dân vận không nghiêm. Lực lượng quân sự của ta quá mỏng, bố trí phân tán, việc thu vũ khí của địch làm chậm, chủ quan khinh địch.

Về phía địch, sau khi Pháp rút, bọn phản động tay sai ở địa phương đã phân hóa, co lại, chưa dám hoạt động công khai. Số lính địch đầu hàng, nộp súng được ta cho về gia đình. Phần lớn lính khố đỏ, lính dõng theo bọn phản động chỉ huy chạy vào rừng, vượt biên hoặc câu kết với phỉ Mường Khương – Pha Long lẩn lút trong rừng, cướp bóc của cải của nhân dân.

Thực hiện kế hoạch của Pháp âm mưu gây phỉ ở Mặt trận Hà Giang để quấy rối hậu phương ta, giữ chân một bộ phận chủ lực của ta ở địa phương, đỡ cho chúng trên chiến trường chính và tạo điều kiện sau này trở lại tái chiếm, bọn phỉ do các tên Xếp Bình, Xếp Sần, Xếp Vần cầm đầu củng cố lực lượng âm mưu chiếm lại huyện Hoàng Su Phì. Từ ngày 18 đến ngày 22-10-1950, bọn phỉ cướp Bản Máy, Pố Lồ, Bản Cậy, Trung Thịnh, chiếm các kho lương thực, đạn dược, lô cốt 1.000, 800. Chúng cho 40 tên đánh vào huyện lỵ. Bộ đội ta dũng cảm chiến đấu hơn 4 ngày đêm nhưng lực lượng của ta ít, quá chênh lệch so với địch và tạm thời rút khỏi huyện lỵ để bảo toàn lực lượng.

Lúc này tỉnh Hà Giang nhận thức công tác tiễu phỉ là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt và hết sức phức tạp vì phỉ gồm tàn quân Pháp, thổ ty phản động và một số Quốc dân đảng Trung Quốc, hoạt động dưới sự điều khiển của đặc vụ và một số chỉ huy của Pháp để lại. Ngày 26-10-1950, Tỉnh ủy Hà Giang ra Chỉ thị số 91-CT/HG về việc phải cương quyết bằng quân sự đánh bật địch ra khỏi huyện lỵ.

Để thực hiện chỉ thị này, Đảng bộ khẩn trương lãnh đạo nhân dân tổ chức lực lượng tiếp tục chiến đấu. Ta đưa lực lượng vào vùng địch tạm chiếm, nơi có cơ sở tốt trước đây để tuyên truyền, phân hóa địch. Đối với Việt gian, đặc vụ, ta chủ trương kêu gọi chúng đầu hàng. Nếu chúng ngoan cố chống lại thì phải tiêu diệt; thưởng muối cho những người có công; tổ chức những trận tập kích nhỏ làm cho địch hoang mang, dao động. Từ ngày 4-12-1950 đến đầu năm 1951, quân dân địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực của tỉnh tiễu phỉ. Ta bắt sống 11 tên phản động địa phương khét tiếng gian ác,
32 tên tàn quân Tưởng, bức hàng 10 tên, thu 1.058 khẩu súng các loại, lấy lại cho dân 14 con ngựa. Trên đà thắng lợi, huyện cùng Trung đoàn 30 bộ đội địa phương Hà Giang và Tiểu đoàn 48 bộ đội Tuyên Quang mở cuộc tiến công mạnh mẽ vào huyện lỵ tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng huyện lỵ Hoàng Su Phì ngày 6-1-1951. Rút kinh nghiệm những lần tiếp quản huyện trước đây, ta tiếp tục võ trang tuyên truyền mạnh ở nhiều xã và tiếp tục đánh đuổi quân địch bật khỏi các cứ điểm khác, giành thắng lợi cơ bản về quân sự (3-2-1951).

Việc giải phóng huyện lỵ nhanh chóng đã kịp thời ngăn chặn lính dõng các nơi nổi dậy, sự can thiệp của thổ phỉ ở biên giới và của quân Pháp. Nhân dân vùng giải phóng phấn khởi, đoàn kết tin tưởng vào Đảng, Chính phủ, tích cực tham gia công cuộc “kháng chiến kiến quốc” tạo thêm sức mạnh mới cho phong trào cách mạng của huyện.

Qua đợt tấn công quân sự, mặc dù ta đánh tan được lực lượng tập trung của phỉ, giải phóng được một số vùng do chúng chiếm đóng, nhưng ta chưa tiêu diệt được sinh lực và bọn đầu sỏ, chỉ huy phỉ chưa đập tan được ý chí chống phá cách mạng của bọn đầu sỏ. Ở thời kỳ này, do ta chưa nhận rõ được tính chất của vấn đề phỉ nên tư tưởng lãnh đạo nặng về hoạt động quân sự, mà chưa chú trọng đúng mức đến công tác vận động chính trị, chưa quán triệt cho các chiến sĩ chính sách đối với các loại phỉ và đối với nhân dân vùng có phỉ, do vậy đã hạn chế thắng lợi.

Đầu năm 1951, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc ở Hoàng Su Phì trong đó có vùng Xín Mần tiếp tục nhiệm vụ tiễu phỉ đồng thời tham gia công tác phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.

Ngày 7-4-1951, Hội nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Giang họp, đề ra nhiệm vụ: tiễu phỉ, trừ gian, đề phòng Pháp quay trở lại. Hội nghị hạ quyết tâm phá tan âm mưu xâm lược của thực dân Pháp và đè bẹp ý chí nổi loạn của bọn phản động và thổ phỉ.

Ngày 15-4-1951, Đảng bộ Hà Giang tiến hành Đại hội lần thứ II. Đại hội đã kiểm điểm, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ I và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới để toàn Đảng, toàn dân trong tỉnh thực hiện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, xây dựng Đảng… đồng thời chỉ ra khuyết điểm, những nhận thức chưa đúng của cán bộ, đảng viên, nhằm tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến kiến quốc của tỉnh mau đến thắng lợi.

Trong tháng 4 và 5 -1951, ta giải phóng thêm một số địa bàn, làm chủ tình hình nhiều nơi, đẩy địch vào tình thế bị động. Lúc này, phỉ tập trung thành 3 khu vực:

1- Hạng Sào Chúng là đầu sỏ phỉ từ Trung Quốc về chiếm Nhiều Sang, Đản Ván, cầm đầu 40 tên, lúc đông nhất có 100 tên, với 2 súng máy và trang bị đủ súng trường. Bọn này đi sâu nắm đồng bào Mông, Dao từ Tả Sử Choóng, Nặm Dịch, Cao Bồ, Lao Chải.

2. Các tên Xếp Sần, Xếp Vần nắm ở Ma Lù Thàng, Đản Ván Thượng, Thàng Tín cầm đầu 30 tên phỉ trang bị đủ súng.

3- Tên Sần Chẩn Phù (tức Phó lý Lùng Cháng) nắm khu vực Bản Díu, Chế Là, Thèn Phàng. Nhiệm vụ của Phù là nhận chỉ thị của Pháp để truyền đạt cho phỉ ở Hoàng Su Phì và giữ mối liên lạc với phỉ ở Mường Khương – Pha Long (Lào Cai). Lúc này, bọn phỉ tăng cường và thẳng tay cướp bóc tài sản của nhân dân, làm cho nhân dân trong vùng hoang mang, lo sợ, không yên tâm lao động sản xuất.

Âm mưu gây phỉ của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ lần này có quy mô lớn, có sự câu kết giữa Pháp – Mỹ - Tưởng. Pháp dùng máy bay thả dù tiếp tế cho phỉ với khối lượng lớn vũ khí, lương thực và nhiều toán gián điệp biệt kích, đặc vụ. Ảnh hưởng của bọn đầu sỏ phỉ, tức bọn thổ ty trong quần chúng các dân tộc còn tương đối lớn. Chúng vẫn dựa được vào các uy thế cũ để lừa gạt và cưỡng bức, lôi kéo một bộ phận quần chúng đi theo. Thủ đoạn gây phỉ của địch cũng thâm độc và tàn bạo hơn trước. Chúng lợi dụng vấn đề dân tộc như mâu thuẫn dân tộc, trình độ nhận thức và tâm lý quần chúng các dân tộc, những sai lầm khuyết điểm của cán bộ ta trong việc chấp hành các chính sách đối với vùng dân tộc, v.v. để tuyên truyền, lừa gạt, hoặc đe dọa, cưỡng bức quần chúng cầm súng làm phỉ.

Trước tình hình này, thực hiện chủ trương của Trung ương và Khu ủy Việt Bắc, quân dân Hà Giang cùng quân dân Lào Cai phối hợp với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc mở chiến dịch tiễu phỉ “Đông Tây tập đoàn” bắt đầu từ ngày 12-5-1952 đến tháng 10-1952. Ta phối hợp với bạn quét sạch phỉ, đặc vụ, bọn phản động dọc biên giới Lào Cai và hoạt động, giải phóng nhân dân ra khỏi sự kìm kẹp của phỉ, cải thiện dân sinh, đem lại đời sống yên ổn cho nhân dân. Phương châm của ta là chính trị kết hợp với quân sự, quân sự làm áp lực cho chính trị, biến chính sách khoan hồng, đại đoàn kết bằng những hành động thực tế để tranh thủ nhân dân, phát động quần chúng vừa đánh phỉ vừa làm công tác dân vận gây cơ sở và nắm quần chúng. Ta tập trung quân đánh thẳng vào sào huyệt tiêu diệt phỉ, phát động chiến tranh nhân dân ở vùng có phỉ, tổ chức vũ trang tuyên truyền kêu gọi địch ra hàng, tiêu diệt những tên ngoan cố.

Lực lượng chủ yếu tham gia chiến dịch này gồm có Trung đoàn 148, bộ đội địa phương Lào Cai, 2 đại đội chủ lực tỉnh Hà Giang, 1 đại đội của Mường Khương, 1 đại đội Bắc Hà cùng lực lượng Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc quét phỉ ở biên giới Việt – Trung. Trong chiến dịch này đội tuyên văn của Trung đoàn 148, khi đến xã Nàn Ma phục vụ bộ đội và nhân dân đã bị phỉ tập kích giết hại cả đội gồm 12 đồng chí (tháng 11-1952). Gương hy sinh anh dũng của các đồng chí vẫn còn khắc sâu mãi trong ký ức của đồng bào các dân tộc trong huyện.

Về phía ta, chiến dịch “Đông Tây tập đoàn” được chia làm 2 khu vực:

- Khu đông Hoàng Su Phì, từ núi Tây Côn Lĩnh đến Bó Đướt, Tả Sử Choóng.

- Khu tây Hoàng Su Phì gồm Chế Là, Cốc Pài, Nặm Yên, Thèn Phàng, Chí Cà.

Ngày 12-5-1952, ta tiến công tiêu diệt một bộ phận phỉ ngay tại sào huyệt của chúng. Bọn Hạng Sào Chúng bị đánh tan rã chạy vào rừng Tây Côn Lĩnh. Các tên Xếp Sần, Xếp Vần chạy về Nặm Yên, Cốc Pài, kết hợp với bọn Sần Chẩn Phù hòng liên lạc với phỉ ở Lũng Phìn, Bắc Hà.

Sau khi Pháp thả dù tiếp tế cho phỉ ở Lũng Phìn, Bắc Hà (Lào Cai), những toán phỉ hoạt động ngấm ngầm đã dụ dỗ, cưỡng bức một số dân ở Bản Díu, Thèn Phàng, Chế Là, Cốc Pài cầm súng theo chúng. Nhưng khi đụng đầu với bộ đội của ta ở Bắc Hà sang và thấy bọn trùm phỉ ở Ma Lù Thàng tan tác thì chúng phân tán ở vùng Nặm Yên. Kết quả chung của Chiến dịch “Đông Tây tập đoàn” (từ ngày 12-2-1952 đến tháng 10-1952), ta đã tiêu diệt và bắt sống 3.360 tên địch, trong đó có các tên chỉ huy như tên quan ba Pháp Phrăngxoa, tên Xin Chỉn Phù, thu hơn 2.500 súng các loại, 2.400 viên đạn, 1.947 quả mìn, 1.750 chiếc dù, 7 máy vô tuyến điện, lấy lại cho đồng bào 960 con trâu, bò.

Tháng 12-1952, quân dân huyện Hoàng Su Phì bức hàng 86 tên phỉ, trong đó có 60 tên do Hạng Sào Chúng chỉ huy.

Trong chiến dịch tiễu phỉ năm 1952, ta đã giành được thắng lợi, phá được âm mưu câu kết giữa thổ phỉ với đặc vụ, tàn quân Tưởng, phá được kế hoạch của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ thành lập các trung đoàn phỉ ở biên giới Việt – Trung. Ta đã vận động, thuyết phục quần chúng từ chỗ chịu ảnh hưởng của địch đến chỗ tin tưởng và quyết tâm đấu tranh với địch.

Song song với công tác tiễu phỉ và công tác vùng địch tạm chiếm, các mặt củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện chính sách kinh tế, tài chính và phát triển văn hóa, xã hội đều có những bước tiến đáng kể.

Ngày 28-4-1954, ta đã đập tan vụ nhảy dù của 53 tên biệt kích do Pháp thả xuống Nàn Ma, bắt sống 36 tên, thu nhiều vũ khí và tài liệu quan trọng.

Mặc dù bị thua đau trên các chiến trường, cuối tháng 7-1954, Pháp thả dù tiếp tế đạn dược, lương thực xuống Chế Là cho bọn phỉ do Cháng Sào Khún chỉ huy với 25 tên hoạt động ở Xín Mần. Được tiếp tế thêm, phỉ phát triển rất nhanh chóng, chỉ sau một thời gian ngắn, chúng đã hoạt động ở khắp các xã vùng Xín Mần. Lúc này, lực lượng chủ lực của tỉnh tạm thời rút ra Bắc Quang. Sau một thời gian củng cố, xây dựng lực lượng và quyết tâm đánh phỉ, từ ngày 1 đến ngày 15-8-1954, ta đã đánh chúng ở Chu A Phùng, Ngán Chiên, tiêu diệt 15 tên. Ngày 10-10-1954, ta đánh phỉ ở Cùm Vải, Tỷ Phàng, Nàng Cút (Thu Tà), Đông Thang (Cốc Rế), Ngam Mao Lý, Xỉn Khâu, Đản Ma, Lung Pô (Chế Là) Nắm Pé (Tả Nhìu) Nắm Lu (Nấm Dẩn), Đán Khao (Bản Ngò) tiêu diệt 3 tên, bắt sống 9 tên, thu 2 khẩu trung liên, 2 tiểu liên, 7 súng trường, giải phóng Trung Thịnh. Cũng trong dịp này, ta tiêu diệt gọn trung đội Giàng Chính Phả ở Xỉn Khâu (Chế Là). Tháng 11-1954, ta tiêu diệt 30 tên phỉ ở Cốc Pài, Nặm Yên, Chế Là. Để đối phó với việc địch lẩn vào trong dân để tránh sự truy quét của ta, ta tổ chức phát động quần chúng bằng phong trào “Đoàn kết, tiễu phỉ, chiêu an”. Hình thức này đã phát huy tác dụng rất lớn của quần chúng, quy hàng và bắt sống được nhiều tên đầu sỏ. Qua những trận tiến công quân sự quyết liệt của quân và dân ta, bằng chính sách đoàn kết, chính sách khoan hồng, chính sách dân vận, v.v. bọn phỉ ở Hoàng Su Phì trong đó có vùng Xín Mần bị thu hẹp địa bàn hoạt động. Đến tháng 12-1954, địch bị dồn hẹp vào 3 nơi là Nậm Chanh, Nậm Chè, Nậm Yên và một số xã ở phía tây.

Sau khi Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam được ký kết ngày 20-7-1954, cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Cuối tháng 12-1954, bọn phỉ và những phần tử phản động ở Xín Mần hoang mang, tan rã do không còn chỗ dựa trực tiếp, không còn máy bay giặc Pháp lên thả dù tiếp tế hoặc bắn phá, yểm trợ… Hàng nghìn tên phỉ ra hàng, nộp vũ khí cho cách mạng, trở về gia đình làm ăn.

Song song với những thắng lợi của công tác tiễu phỉ và công tác vùng địch tạm chiếm, các mặt củng cố chính quyền, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện chính sách kinh tế, tài chính và phát triển văn hóa xã hội đều có những bước tiến đáng kể.

Ngay sau ngày Pháp rút quân khỏi Hoàng Su Phì (9-1950), ngoài việc quan tâm xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích chống bọn tay sai của Pháp, Đảng bộ Hoàng Su Phì còn tập trung vào công tác lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện phục hồi sản xuất và thực hiện chính sách của Trung ương. Huyện ủy đã chủ trương vận động nhân dân khai hoang, phục hóa thêm diện tích trồng cây lương thực hàng nghìn mẫu đất hoang hóa ở vùng trước đây phỉ chiếm đóng như Trung Thịnh, Cốc Pài, Tụ Nhân, Tân Tiến… được phục hồi để tự giải quyết về lương thực cho nhân dân và góp phần vào việc cung cấp lương thực cho chiến trường. Chính quyền tạo điều kiện về vốn, giống, phương tiện để bảo đảm trồng cấy đúng thời vụ. Song, vùng Xín Mần là nơi chiến sự thường xuyên xảy ra ác liệt, nhiều nơi bị nạn phỉ quấy phá nên cũng ảnh hưởng lớn đến sản lượng lương thực.

Tháng 9-1951, sau khi Sắc lệnh thuế nông nghiệp được ban hành, Tỉnh ủy chỉ đạo kế hoạch thực hiện chiến dịch nộp thuế nông nghiệp và Đảng bộ Hoàng Su Phì lãnh đạo nhân dân đóng thuế nông nghiệp. Đây là công việc mới mẻ, bước đầu còn có những khó khăn, vấp váp do trình độ còn hạn chế, song Đảng bộ đã làm tốt công tác tuyên truyền, vận động đóng thuế nông nghiệp rộng trong khắp các xã: Thèn Phàng, Chí Cà, Xín Mần, Bản Máy, Bản Díu, Hồ Thầu, Cốc Pài… góp phần phục vụ cho cuộc kháng chiến của đất nước. Qua đây, ý thức giai cấp của nhân dân các dân tộc Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần được nâng lên.

Năm 1952, nhiệm vụ tăng gia sản xuất được chú ý hơn. Xuất phát từ quan điểm có đẩy mạnh sản xuất thì mới bảo đảm sự thắng lợi của công tác tiễu phỉ, Đảng bộ huyện chỉ đạo tăng diện tích cấy lúa; sản xuất hoa màu và các cây thực phẩm; việc làm cỏ, bón phân được coi trọng; tổ đổi công có phát triển hơn, cuối năm 1953, riêng 6 xã: Tân Tiến, Tụ Nhân, Bản Máy, Chế Là, Bản Luốc, Nậm Dịch đã tổ chức được 237 tổ đổi công. Phong trào thi đua sản xuất, tiết kiệm được phát động trong toàn huyện.

Công tác thủy nông được chú trọng. Huyện đã vận động nhân dân đào phai, mương. Hệ thống mương, phai này dẫn nước cung cấp cho đồng ruộng và sinh hoạt. Việc có nước cùng với việc dùng phân bón ruộng đã tạo điều kiện cho một số xã phát triển thâm canh, nhập giống lúa mới Nam Ninh, và làm 2 vụ. Từ đây, việc cấy lúa hai vụ đã dần dần trở thành tập quán của nhân dân Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần.

Cùng với nông nghiệp, sản xuất tiểu thủ công nghiệp như nghề dệt, nghề rèn…đã dần dần hồi phục. Nghề rèn hàng năm sản xuất được những nông cụ như lưỡi cày, cuốc, dao, đồ dùng gia đình, v.v. đã đáp ứng được một phần nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.

Năm 1953, cuộc vận động thực hiện chính sách thuế nông nghiệp tiếp tục được triển khai. Huyện đã tổ chức cho nhân dân học tập và thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước trong đó có chính sách ruộng đất. Sắc lệnh giảm tô và quy định về giảm tức, quy chế lĩnh canh, tạm cấp ruộng đất được phổ biến rộng rãi. Hàng trăm tá điền được giảm tô, hàng nghìn món nợ của người nghèo được xóa bỏ. Riêng xã Tân Tiến, cuối năm 1953, đã có 32 tá điền được giảm tô, tất cả là 5.833,44kg thóc; 65 món nợ được xóa, tất cả là 25.339,40kg thóc với 40 đồng bạc già… Cuộc vận động này tuy còn có một số thiếu sót, song trong thực tế, trình độ giác ngộ chính trị, hiểu biết về quyền lợi của nhân dân được nâng lên, những khó khăn về đời sống của nông dân được giải quyết một phần. Năm 1954, cuộc phát động quần chúng giảm tô ở Hoàng Su Phì nhằm đánh đổ chế độ thổ ty, địa chủ, phú nông, đưa lại ruộng đất cho nông dân càng làm cho quần chúng phấn khởi  hăng hái sản xuất, xây dựng cuộc sống mới.

Kết quả bước đầu trên các mặt công tác đã góp phần ổn định đời sống nhân dân, tạo điều kiện đẩy mạnh công tác văn hóa, xã hội, y tế. Các lớp bình dân học vụ được duy trì ở Hoàng Su Phì thu hút được đông đảo nhân dân tham gia. Về y tế, vùng Xín Mần đã có trạm phát thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Công tác giữ gìn vệ sinh được tuyên truyền rộng rãi. Nhân dân xã Xín Mần, Chế Là biết đào giếng chứa nước ăn. Đồng bào Dao bỏ được tục bôi mỡ lên đầu. Đồng bào Mông không để phân gia súc trong nhà… Nếp sống văn hóa mới ngày càng chiếm ưu thế trong nhân dân. Những tập tục lạc hậu mà giai cấp thống trị cố duy trì để làm công cụ thống trị nhân dân đã dần bị cuộc sống mới đẩy lùi.

Trong những năm 1949-1954, công tác củng cố, xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của bộ máy chính quyền huyện được Đảng bộ luôn luôn quan tâm thực hiện. Trước hết, Đảng bộ chấn chỉnh lại tổ chức. Đảng viên được học tập, nghiên cứu các nghị quyết của Trung ương, Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nghị quyết của Đảng bộ để có nhận thức đúng về nhiệm vụ trong hoàn cảnh mới của cuộc kháng chiến. Công tác xây dựng và phát triển lực lượng dân quân du kích, xây dựng và phát triển nền kinh tế kháng chiến là hai nhiệm vụ trọng tâm công tác của Đảng bộ. Để thực hiện hai nhiệm vụ trọng tâm đó, việc củng cố tổ chức Đảng bộ, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng của Đảng bộ được nêu lên là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Đảng bộ bồi dưỡng và kết nạp vào Đảng những người xuất sắc trong phong trào tăng gia sản xuất, phục vụ chiến đấu.

Tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh mọi mặt hoạt động nhằm góp phần đưa kháng chiến đến toàn thắng được nhân dân trong huyện tham gia sôi nổi, đặc biệt là phong trào xung phong tòng quân giết giặc, phong trào tăng gia sản xuất, phong trào dân công phục vụ chiến dịch. Hàng ngàn dân công đã vận chuyển hàng trăm tấn lương thực cho Chiến dịch Điện Biện Phủ.

Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II đã đem lại sự thay đổi nhanh chóng trên các mặt của huyện sau ngày giải phóng, góp phần củng cố, xây dựng huyện vững mạnh, đủ sức đảm đương được nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, đóng góp sức người, sức của cho sự thắng lợi cuộc kháng chiến của dân tộc.

Bảy năm cùng cả nước tiến hành công cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện để xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, cán bộ, đảng viên, quân và dân các dân tộc vùng Xín Mần dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Khu ủy 10, Liên khu ủy Việt Bắc, Tỉnh ủy Hà Giang, Đảng bộ Hoàng Su Phì đã giành được những thắng lợi vẻ vang: lật đổ chế độ thực dân phong kiến, phá âm mưu gây phỉ thâm độc và lâu dài của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, thiết lập chế độ dân chủ nhân dân, góp phần quan trọng cùng nhân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng miền Bắc.

Với đặc thù là một địa bàn chỉ có cơ sở cách mạng từ sau Cách mạng Tháng Tám, với số cán bộ, đảng viên còn mỏng và năng lực còn có mặt hạn chế, nhưng Huyện ủy Hoàng Su Phì đã giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân thông qua các đoàn thể cứu quốc. Đối với các vùng còn nhiều khó khăn như Xín Mần, Huyện ủy đã có sự chú ý quan tâm đặc biệt. Trong cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa ta và địch, Đảng bộ đã nắm vững bạo lực cách mạng, vừa xây dựng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang vừa khéo kết hợp các hình thức đấu tranh trong điều kiện cụ thể từng lúc, từng nơi.

Vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vùng Xín Mần nói riêng, Hoàng Su Phì nói chung đã diễn ra cuộc đấu tranh chống lại chế độ thổ ty hà khắc, với những đặc quyền đặc lợi, giải phóng nông dân, tự họ làm chủ cuộc sống của mình. Nhờ sự giúp đỡ của Đảng bộ, chính quyền và bằng nỗ lực của bản thân mình, đời sống của nhân dân được cải thiện cả về vật chất và văn hóa.

Cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ, hy sinh đã xây dựng và tôi luyện cho Hoàng Su Phì nói chung, vùng Xín Mần nói riêng một đội ngũ cán bộ, đảng viên có ý chí, phẩm chất cách mạng, tận tụy hy sinh vì sự nghiệp của cách mạng, vì độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.

Bên cạnh những thắng lợi đạt được, phong trào kháng chiến ở địa phương khó tránh khỏi thiếu sót trong chỉ đạo, lãnh đạo của các cơ sở đảng. Do yếu tố khách quan, các chi bộ đảng chỉ coi trọng nhiệm vụ chiến đấu và coi nhẹ mặt phát triển văn hóa, xã hội, tệ nạn xã hội còn nặng nề, hạn chế sự tiến bộ và bị kẻ thù xuyên tạc, lợi dụng. Nguyên nhân là do một số cán bộ, đảng viên chưa làm tốt công tác vận động quần chúng, không sát thực tế. Việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ địa phương chưa được chú ý đúng mức, trình độ còn thấp dẫn đến việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng còn bị sai lệch. Hạn chế những khuyết điểm, tiếp tục phát huy những thắng lợi đạt được, nhân dân vùng Xín Mần cùng cả huyện phấn khởi, vững tin chuẩn bị bước vào thời kỳ cách mạng mới.

III- CẢI TẠO VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI,
ĐẢNG BỘ HUYỆN XÍN MẦN ĐƯỢC THÀNH LẬP
(1954 – 1965)

1. Khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân (1954 -1957)

 Thắng lợi vĩ đại của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đưa cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới: miền Bắc tiến lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Cùng với nhân dân miền Bắc, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Đảng bộ và nhân dân huyện Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần bắt tay vào công cuộc khôi phục kinh tế với muôn vàn khó khăn. Hậu quả của chế độ cũ, của chiến tranh và thiên tai để lại còn rất nặng nề. Giao thông ở Hoàng Su Phì nói chung và vùng Xín Mần nói riêng chưa phát triển, việc đi lại gặp nhiều khó khăn, nhất là ở vùng cao biên giới xa xôi hẻo lánh; ở một số nơi bọn Việt gian, thổ phỉ co cụm lại dựa vào núi rừng lén lút hoạt động. Không chỉ bọn phản động trong nước mà cả bọn đặc vụ Quốc dân đảng cùng với những tên có nhiều nợ máu với nhân dân Trung Quốc chạy trốn sau khi cách mạng Trung Quốc thành công, sống lén lút ở vùng biên giới, trong đó có vùng Xín Mần. Chúng câu kết với bọn thổ phỉ và bọn phản động địa phương âm mưu cài cắm cơ sở, mai phục lâu dài nhằm chống phá cách mạng.

Về văn hóa, xã hội, do phong trào bình dân học vụ mới được phát động lại bị gián đoạn do chiến tranh nên số người biết đọc, biết viết rất ít, trình độ dân trí còn thấp. Các phong tục tập quán lạc hậu vẫn còn khá phổ biến trong nhân dân. Dân cư trong huyện thành phần khá đa dạng, gồm nhiều dân tộc như Tày, Nùng, Mông, Dao, La Chí… sinh sống chủ yếu bằng ruộng nương, trồng ngô… với trình độ canh tác còn thô sơ lạc hậu, chủ yếu tự cấp, tự túc, nhân dân thiếu ăn thường xuyên. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của vùng Xín Mần vừa thiếu, lại chưa có kinh nghiệm quản lý kinh tế, xã hội, trình độ văn hóa thấp…

Trước tình hình trên, để giữ vững chính quyền dân chủ nhân dân, Đảng bộ Hoàng Su Phì đã phối hợp với các đoàn thể, mặt trận, các cấp, các ngành lãnh đạo nhân dân ổn định chính trị, khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.

Trước hết, công tác giáo dục tư tưởng được Đảng bộ thường xuyên quan tâm. Đảng bộ đã phát động những đợt học tập và sinh hoạt chính trị cho cán bộ, đảng viên và cho nhân dân, nhằm làm cho mọi người hiểu về sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Huyện ủy Hoàng Su Phì chỉ đạo chi bộ, chính quyền các xã trước mắt tập trung vào công tác tuyên truyền về ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong ngày Quốc khánh 2-9-1954, huyện đã tổ chức cuộc mít tinh có hơn 4.000 người tới dự, qua đó đồng bào càng hiểu rõ trách nhiệm của mình đối với việc củng cố chính quyền, đề cao vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng bộ đã tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về việc đấu tranh đòi Mỹ - Diệm thi hành Hiệp định Giơnevơ, nêu bật thắng lợi to lớn của cách mạng nước ta, về chủ trương, đường lối của Đảng và Chính phủ trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức và động viên tinh thần của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đoàn kết các dân tộc, chống âm mưu chia rẽ, phá hoại của đế quốc Mỹ và tay sai. Đây thực sự là đợt sinh hoạt chính trị mang tính quần chúng rộng lớn, qua đó nâng cao tinh thần yêu nước của quần chúng nhân dân.

Ngoài ra, Đảng bộ đã đưa cán bộ, đảng viên của huyện xuống các xã tuyên truyền sâu rộng chính sách khoan hồng của Đảng và Chính phủ cho những gia đình có con em tham gia ngụy quân, ngụy quyền, được đồng bào hoan nghênh, vận động những tên theo phỉ ra đầu thú, trấn áp những tên ngoan cố.

Nhờ ổn định chính trị, đồng bào trong huyện hăng hái hơn trong sản xuất. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng về chống đói, phòng đói và phục hồi sản xuất (ngày 3-11-1954), Huyện ủy và chính quyền chỉ đạo các xã tập trung vào việc khai hoang, phục hóa, trồng ngô, sắn cứu đói, cải tiến nông cụ, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm; vận động nhân dân tu sửa mương, phai dẫn nước chống hạn; trừ sâu hại lúa, làm cỏ, bón phân theo đúng kỹ thuật. Đồng thời, Huyện ủy chú trọng lãnh đạo nhân dân kiên quyết đấu tranh với những tập quán làm ăn lạc hậu, đưa tiến bộ kỹ thuật vào trong thâm canh, mạnh dạn đưa lúa Nam Ninh vào cấy trên diện rộng. Nhờ những cố gắng đó mà đến cuối năm 1955 đời sống nhân dân trong huyện nói chung, vùng Xín Mần nói riêng dần dần được ổn định, nạn đói giảm nhiều, sản xuất bắt đầu được khôi phục, nhân dân có điều kiện đóng góp nghĩa vụ thuế nông nghiệp với Nhà nước.

Tuy nhiên, tình hình phát triển sản xuất trong toàn Huyện chưa được tiến hành đồng đều. Đảng bộ, chính quyền chưa sâu sát với tình hình thực tế, chưa nắm bắt kịp thời để giải quyết khó khăn giúp dân, nhất là đối với những gia đình thiếu đói gay gắt, những gia đình có con em theo phỉ chưa yên tâm sản xuất, do đó sản xuất chậm phát triển. Ở một số nơi bọn phỉ còn chiếm đóng, đồng bào không có điều kiện để phát triển sản xuất, ruộng để hoang…

Cùng với phong trào sản xuất và chăn nuôi, phong trào xây dựng tổ đổi công bước đầu cũng được hình thành. Các xã thành lập tổ đổi công dưới hình thức “tổ đoàn kết tiễu phỉ” phù hợp với hoàn cảnh lúc đó, chủ yếu là hình thức tương trợ giúp nhau trong việc cày cấy, làm cỏ, đổi công trâu… Nói chung hình thức tổ đổi công chủ yếu là làm hộ, mướn nhau theo từng vụ, từng việc. Trong khi đó, thổ ty trong huyện vẫn còn nhiều ruộng đất chuyên phát canh thu tô, lợi dụng hình thức cũ để bóc lột nhân dân, không những không chịu tham gia tổ đổi công mà còn tìm mọi cách phá hoại phong trào.

Năm 1956, Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì tiếp tục vận động nhân dân thi đua sản xuất, tiết kiệm, tập trung vào công tác khai hoang, phục hóa, cải tiến kỹ thuật, sửa chữa mương, phai, đưa sản xuất lên cao. Đảng bộ xác định tổ đổi công là lực lượng chủ chốt để thực hiện mục tiêu sản xuất nông nghiệp. Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần, là những nơi tiêu biểu của tỉnh Hà Giang trong công tác vận động nhân dân xây dựng tổ đổi công. Phong trào đổi công phát triển rộng khắp trong huyện là động lực thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm phát triển. Vì vậy, đời sống nhân dân từng bước được ổn định, nạn đói giảm hẳn, nhân dân phấn khởi tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.

Nhìn chung, đến năm 1957, ở Hoàng Su Phì tổ đổi công hoạt động theo từng vụ, từng việc, một số ít tổ đổi công hoạt động thường xuyên. Phong trào đổi công mới phát triển về bề rộng mà chưa phát triển về bề sâu, còn hạn chế về nhiều mặt, như hoạt động không đều đặn, chưa biết cách sắp xếp bố trí công việc, hoạt động không có chương trình kế hoạch…

Trên mặt trận công thương nghiệp, trong những năm 1955 – 1957, Đảng bộ chủ trương khôi phục và mở rộng ngành thương nghiệp chủ yếu là buôn bán nhỏ và kinh doanh tổng hợp, đưa các mặt hàng cần thiết như cày, cuốc, xẻng phục vụ nông nghiệp và một số hàng tiêu dùng khác phục vụ đời sống nhân dân.

Ngành tiểu thủ công nghiệp cũng có bước chuyển biến mới. Nghề đúc, rèn truyền thống của vùng Xín Mần vẫn được tiếp tục phát huy đã cung cấp được nhiều lưỡi cày, liềm, dao, bừa phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nghề dệt vải cũng phát triển.

Song song với việc phục hồi kinh tế, Đảng bộ tỉnh Hà Giang chỉ đạo việc thi hành sắc lệnh giảm tô, giải quyết vấn đề “người cày có ruộng”. Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã coi trọng việc điều chỉnh lại ruộng đất, thực hiện việc tạm cấp, tạm giao ruộng công, ruộng hoang, ruộng vắng chủ và ruộng đất của số thổ ty phản động Việt gian cho nông dân. Việc điều chỉnh ruộng đất bước đầu đáp ứng được một phần yêu cầu bức thiết của quần chúng nông dân. Từ năm 1954 đến năm 1955, đã kết hợp việc thuyết phục các đối tượng với vận động quần chúng đấu tranh, đẩy mạnh việc thực hiện giảm tô, giảm tức. Nhiệm vụ cách mạng ở Hoàng Su Phì nói chung, vùng Xín Mần nói riêng giai đoạn này là đánh đổ uy thế chính trị và thế lực kinh tế của bọn địa chủ là thổ ty phản động, hạn chế sự bóc lột của tầng lớp trên, đem lại ruộng cày cho đa số nông dân, đưa họ lên địa vị làm chủ ruộng đồng, làm chủ cuộc sống của  mình. Do vậy, nông dân phấn khởi, hăng hái sản xuất, cải thiện cuộc sống, tích cực đóng thuế cho Nhà nước, tham gia củng cố chính quyền, xây dựng lực lượng vũ trang, phát triển nông hội, có điều kiện tham gia học tập, sinh hoạt văn hóa, xã hội trong các tổ chức đoàn thể…

Đối với một huyện có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, Đảng bộ thường xuyên quan tâm đến công tác đoàn thể. Các tổ chức đoàn thể của huyện phát triển khá nhanh. Thông qua các tổ chức đó, nhân dân các dân tộc của huyện Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần, có điều kiện được học tập các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ cũng như tham gia mọi sinh hoạt chính trị khác. Tình đoàn kết tương trợ giữa các dân tộc được tăng cường, lòng tin của quần chúng vào Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh được củng cố. Ngay sau ngày hòa bình được lập lại, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc của huyện đã được thành lập. Các tổ chức rộng rãi của quần chúng tập hợp trong mặt trận thành một khối thống nhất có điều kiện tham gia đóng góp sức người, sức của cho đất nước. Năm 1956, huyện Hoàng Su Phì tổ chức đợt học tập Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Qua đợt học tập, nhân dân các dân tộc của huyện càng thêm tin tưởng vào vai trò của Mặt trận. Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Đảng bộ quán triệt trong cán bộ, đảng viên, tạo động lực thúc đẩy phong trào cách mạng trong huyện ngày càng phát triển.

Cùng với việc ổn định, khôi phục kinh tế, Đảng bộ và chính quyền cấp huyện, xã đã quan tâm đến đời sống văn hóa – xã hội của đồng bào. Phong trào bình dân học vụ phát triển mạnh ở khắp các xã với nhiều hình thức học rất phong phú, có lớp học ban ngày, có lớp học ban đêm, thu hút được mọi lứa tuổi tham gia. Cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ tổ chức, đôn đốc phong trào. Nạn mù chữ trong nhân dân được đẩy lùi, trình độ dân trí từng bước được nâng lên.

Trong những năm 1955-1957, các hoạt động văn hóa, xã hội được Đảng bộ và Ủy ban hành chính triển khai và thực hiện sôi nổi. Các đội văn nghệ của huyện đã phát huy truyền thống văn hóa của các dân tộc, phục vụ trong các đợt vận động thành lập Khu tự trị, những ngày lễ của đất nước… góp phần làm cho đồng bào phấn khởi, tăng thêm tình đoàn kết, giữa các dân tộc.

Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân cũng được đẩy mạnh. Huyện đã có phòng khám bệnh, phát thuốc cho nhân dân, vận động nhân dân xây dựng nếp sống mới, chống mê tín dị đoan, giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh nhằm ngăn chặn các bệnh dịch lan truyền.

Công tác quân sự địa phương trong những năm từ năm 1955 đến đầu năm 1957 đã được cấp ủy chú ý Đảng bộ và chính quyền nhân dân của huyện đã quan tâm đến việc xây dựng dân quân du kích địa phương ngày càng vững mạnh.

Đầu năm 1955, những tên đầu sỏ Cháng Sào Khún và Xếp Sần với 2 tiểu đội có vũ trang tiếp tục hoạt động chống phá ta ở vùng Xín Mần. Chúng phục kích giết cán bộ, ngăn cản đồng bọn ra đầu hàng chính quyền cách mạng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, chống phá chính quyền, cướp bóc, hà hiếp nhân dân.

Để đối phó với những âm mưu mới của địch, giữ gìn an ninh chính trị ở địa phương, Tỉnh ủy Hà Giang đã chủ trương tiến hành một đợt tiễu phỉ vào đầu năm 1955, lấy hoạt động chính trị kết hợp với công tác cải thiện dân sinh, vận động quần chúng chống âm mưu gây phỉ, vận động các gia đình có người theo phỉ mang vũ khí ra hàng, đánh đổ bọn đầu sỏ tay sai đắc lực của đế quốc Pháp. Trên tinh thần đó, các đội làm công tác tiễu phỉ củng cố cơ sở đã xuống thôn bản một mặt tuyên truyền giáo dục nhân dân hiểu rõ và làm tốt chính sách phát triển sản xuất, chính sách đối với phỉ, chính sách đoàn kết, bình đẳng giữa các dân tộc của Đảng và Chính phủ, gây thêm niềm tin tưởng vào Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh; mặt khác phát động quần chúng tố cáo tội ác của bọn đế quốc và tay sai, tự giác cùng bộ đội và dân quân tiễu phỉ.

Song song với công tác tuyên truyền giáo dục trong dân, lực lượng dân quân du kích và lực lượng công an của huyện phối hợp với bộ đội chủ lực của tỉnh tiến công các nhóm phỉ trên địa bàn huyện. Sau đợt tiễu phỉ này bọn Cháng Sào Khún và Xếp Sần từ chỗ có 2 tiểu đội đến chỗ chỉ còn một số ít tên đi theo chúng. Qua giáo dục, tuyên truyền, một số người bị phỉ lừa gạt, dụ dỗ đi theo chúng hiểu được chính sách khoan hồng của ta, rời bỏ hàng ngũ địch trở về gia đình làm ăn, nhiều tên phỉ ra hàng, đem nộp vũ khí cho chính quyền ta. Số còn lại theo phỉ bị lực lượng vũ trang của ta truy quét, quần chúng tố giác, tỏ ra hoang mang lo sợ. Tuy vậy, một số tên đầu sỏ được đế quốc nâng đỡ, tiếp sức vẫn ngoan cố chống lại ta. Tháng 4-1956, bọn Cháng Sào Khún, Xếp Sần lại xuất hiện ở Chế Là, Cốc Pài, Thèn Phàng, cướp bóc của cải của nhân dân. Chúng tập hợp thêm lực lượng, mở rộng phạm vi hoạt động ở Tống Quán Lìn, Tân Tiến, Thèn Phàng… Lúc này một số phần tử lâu nay nằm in cũng ngóc đầu dậy phụ họa tuyên truyền xuyên tạc chính sách của ta, chia rẽ đồng bào các dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân ta tiến công vào vùng phỉ hoạt động ở Chế Là, Cốc Pài, Bản Máy, Xín Mần, Thèn Phàng, Bản Díu, Trung Thịnh, Tụ Nhân, tiêu diệt bọn đầu sỏ, tuyên truyền giác ngộ những người lầm đường quay về với nhân dân. Lúc này, lực lượng phỉ cơ bản đã bị tan rã. Riêng tên Cháng Sào Khún vẫn sống lẻn lút trong rừng. Tình hình an ninh chính trị địa phương tạm được ổn định. Chính quyền huyện từng bước xây dựng, củng cố dân quân du kích, tăng cường chức năng bảo vệ an ninh địa phương.

Sau ngày miền Bắc được giải phóng, Huyện ủy Hoàng Su Phì đã kiện toàn về cơ cấu tổ chức Đảng và chính quyền cơ sở, chỉ đạo kết hợp công tác cơ sở với việc chấn chỉnh lại chi ủy và Ủy ban hành chính các xã trong đó có các xã thuộc vùng Xín Mần. Nói chung, qua phong trào cách mạng, cán bộ đảng viên gương mẫu, chịu khó công tác, tinh thần tốt, lăn lộn với phong trào. Song, do trình độ còn hạn chế, chưa có nhiều kinh nghiệm nên một số cán bộ không tránh khỏi những vấp váp trong công tác, tư tưởng tự ti, bảo thủ vẫn còn nặng. Các chi bộ đã chú ý đến việc bồi dưỡng những quần chúng tích cực, thường xuyên lấy công tác thực tế để giáo dục quần chúng, nâng cao ý thức giai cấp và tổ chức quần chúng trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ.

Trong 3 năm khôi phục kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Hoàng Su Phì, nhân dân vùng Xín Mần đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong công cuộc xây dựng nền kinh tế mới sau nhiều năm bị chiến tranh tàn phá. Cải cách dân chủ bước đầu đem lại quyền lợi chính trị và kinh tế cho nhân dân lao động. Phong trào bình dân học vụ đã đưa lại cho nhiều người dân biết đọc, biết viết. Cuộc sống mới ở nông thôn đang dần xuất hiện. Các chi bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể đã được củng cố, hoạt động ngày càng hiệu quả hơn. Vai trò của Đảng được nâng cao. Tuy còn rất nhiều khó khăn, song những thành tựu trên đây mà cán bộ, đảng viên và nhân dân vùng Xín Mần đạt được là cơ sở tốt để bước vào thời kỳ cách mạng mới: cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế - xã hội.

2. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế - văn hóa (1958 - 1960)

 Sau những năm hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và ổn định đời sống nhân dân, tháng 11-1958, Trung ương Đảng đề ra nhiệm vụ cơ bản cho miền Bắc là: Đẩy mạnh công cuộc xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trọng tâm là cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế cá thể trong nông nghiệp, thợ thủ công và thành phần kinh tế tư bản tư doanh.

Đối với nông nghiệp nông thôn, Đảng ta chủ trương thay thế các hình thức sở hữu cá thể bằng sở hữu tập thể, thực hiện từng bước từ tổ đổi công với các hình thức từ thấp lên cao (đổi công từng vụ, từng việc, đổi công thường xuyên đến đổi công bình công chấm điểm) từ đó chuyển sang xây dựng hợp tác xã theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ.

Hoàng Su Phì mà đặc biệt Xín Mần là một vùng rẻo cao, nền kinh tế chủ yếu là tự cấp, tự túc, có nhiều thành phần, trong đó kinh tế cá thể của nông dân là chính, một số ít là địa chủ, phú nông, một số là thợ thủ công cổ truyền dân tộc sống rải rác ở các thôn bản, kết hợp nghề rèn đúc hoặc nghề dệt với sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy mà việc tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo chủ trương của Trung ương là việc làm cần thiết nhưng gặp nhiều khó khăn, phức tạp.

Để kiện toàn bộ máy chính quyền nhằm thực hiện tốt chủ trương của Đảng, năm 1959, huyện Hoàng Su Phì đã củng cố lại Hội đồng nhân dân các cấp. Toàn huyện có 377 đại biểu tham gia Hội đồng nhân dân các cấp. Số đại biểu tham gia Hội đồng nhân dân gồm nhiều thành phần dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Mông, Dao… với nhiều thành phần xã hội tham gia (bần nông, cố nông, công chức…), tỷ lệ đảng viên trong Hội đồng nhân dân chiếm số đông. Cũng trong năm 1959, Hội đồng nhân dân huyện, xã cử ra Ủy ban hành chính huyện và xã gồm 116 ủy viên.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền, Đảng bộ huyện lãnh đạo các ngành, các cấp tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,… Đảng bộ phân công cán bộ, đảng viên đi sâu đi sát quần chúng tuyên truyền, vận động họ vào tổ đổi công và hợp tác xã, phát triển sản xuất, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ, đồng thời đấu tranh chống các luận điệu phản tuyên truyền của các phần tử phản động nói xấu về chính sách hợp tác hóa. Đến năm 1958, phong trào tổ đổi công đã được đẩy mạnh với phương châm: củng cố tổ đổi công để đẩy mạnh sản xuất. Trong 6 tháng cuối năm 1958, huyện mở 6 lớp huấn luyện cho 491 cán bộ học tập về chính sách tổ đổi công, chính sách hợp tác hóa… và tổ chức học tập đến các tổ. Tính đến tháng 12-1958, huyện đã có 95 tổ đổi công thường xuyên. Năm 1959, do chính sách tổ đổi công phù hợp với hoàn cảnh của các dân tộc Hoàng Su Phì nói chung, vùng Xín Mần nói riêng, nên 85% số hộ nông dân đã vào tổ đổi công và hoạt động khá đều. Phong trào tổ đổi công phát triển rộng khắp huyện đã có tác dụng tích cực đối với nông thôn, nông nghiệp huyện Hoàng Su Phì. Nhờ có tổ đổi công mà nông nghiệp phát triển, đời sống của nhân dân đỡ khó khăn hơn trước. Đồng thời với việc đẩy mạnh phong trào xây dựng tổ đổi công, Đảng bộ đã tiến hành xây dựng thí điểm hợp tác xã nông nghiệp. Tháng 11-1959, hợp tác xã nông nghiệp Tân Tiến (xã Tân Tiến) là hợp tác xã đầu tiên của huyện ra đời trong cuộc vận động cải cách dân chủ, phát triển sản xuất kết hợp với hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp. Do thành tích sản xuất tốt, năm 1959, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Chí Cà được Ủy ban hành chính Khu tự trị Việt Bắc và Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang tặng 2 Bằng khen, 1 lá cờ thi đua danh dự và được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba về thành tích thi đua “làm mùa đạt năng suất cao”. Xã Chí Cà được tỉnh công nhận là xã vùng cao đầu tiên căn bản hoàn thành việc đưa nông dân cá thể vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa. Kết quả này cho thấy quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đã được nông dân tự nguyện ủng hộ và đang thực sự phát huy tác dụng to lớn ở trong huyện. Theo kế hoạch đề ra, năm 1960, huyện tiếp tục củng cố, phát triển mạnh tổ đổi công, đồng thời Huyện ủy đã tổ chức rút kinh nghiệm việc xây dựng thành công hợp tác xã Tân Tiến và nhân rộng phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Cuối năm 1960, phong trào hợp tác hóa đã được triển khai rộng khắp các xã trong huyện.

Song song với việc củng cố quan hệ sản xuất ở nông thôn, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân kiên quyết đấu tranh với những tập tục lạc hậu, đưa tiến bộ kỹ thuật vào thâm canh, giống và cải tiến nông cụ; vận động nhân dân làm thủy lợi, đào mương phai, chống sâu bệnh… nhằm phát triển lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho nông nghiệp đạt năng suất cao, cải thiện đời sống nhân dân trong huyện.

Không chỉ nông nghiệp, Đảng bộ huyện Hoàng Su Phì đã chú ý tạo điều kiện cho tiểu thủ công nghiệp phát triển. Đảng bộ chủ trương một mặt khuyến khích các nghề thủ công truyền thống phát triển sản xuất để cung cấp nhiều hàng cần thiết cho nhân dân, chủ yếu là các nghề sản xuất nông cụ, nghề dệt, v.v., mặt khác giáo dục vận động các nhà tiểu thủ công đi vào tổ sản xuất để tiến dần lên hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công. Qua học tập chính sách của Nhà nước và qua thực tế hoạt động, nhiều hộ tiểu thủ công của huyện, trong đó có một số hộ ở vùng Xín Mần đã hưởng ứng chính sách hợp tác hóa của Đảng, tự nguyện tham gia hợp tác xã.

Huyện còn tích cực vận động những người buôn bán nhỏ và các ngành nghề khác nhau vào các tổ chức hợp tác xã hoặc tổ mua bán hoặc tổ kinh tiêu, sắp xếp công ăn việc làm vào các ngành nghề thích hợp, nhằm vừa đáp ứng việc sắp xếp lao động có công ăn việc làm, vừa phát huy tài năng của người lao động, khuyến khích sản xuất ra các mặt hàng có ích cho xã hội. Nhiều người tự nguyện xin vào hợp tác xã mua bán, hợp tác xã thủ công. Năm 1960, hầu hết các xã trong huyện, đặc biệt là ở vùng Xín Mần đều thành lập các cửa hàng hợp tác xã mua bán. Các cửa hàng mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán về cơ bản đã bảo đảm được sự lưu thông hàng hóa, ổn định giá cả thị trường, chống được nạn đầu cơ tích trữ, ép giá, tăng giá cả thị trường.

Sự nghiệp văn hóa giáo dục của huyện từng bước được phát triển. Bên cạnh các lớp bình dân học vụ vẫn tiếp tục phát triển, hệ thống trường phổ thông cũng được triển khai. Hầu như xã nào cũng có trường cấp I. Cả huyện có 1 trường phổ thông cấp II đóng tại huyện lỵ. Học sinh đi học ngày càng đông. Tuy vậy, có những vùng sâu, vùng xa hầu như con em các dân tộc vẫn chưa đến trường học. Huyện đã mở trường bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ chủ chốt của huyện, xã và hợp tác xã. Phong trào bổ túc văn hóa phát triển ngày một sôi nổi.

Về hệ thống văn hóa, văn nghệ, huyện và một số xã đã có đội văn nghệ. Nội dung hoạt động đều hướng vào phục vụ sản xuất, phục vụ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện nếp sống văn hóa mới.

Công tác y tế đã được chú ý. Ở huyện đã có bệnh viện khám bệnh, phát thuốc và điều trị cho nhân dân. Một số xã đã trực tiếp phát thuốc ngay tại chỗ cho dân dùng khi ốm đau. Y tế phát triển đã góp phần xóa dần các tệ nạn lạc hậu, mê tín dị đoan.

Để thực hiện chủ trương của Đảng về xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng, huyện đã chỉ đạo việc xây dựng lực lượng hậu bị; củng cố dân quân du kích và thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự. Huyện tổ chức huấn luyện cho du kích các xã với ba nhiệm vụ: Tham gia quân sự quốc phòng; tiêu diệt thổ phỉ, trấn áp bọn phá hoại, giữ gìn trật tự trị an; bảo vệ sản xuất. Tên trùm phỉ Cháng Sào Khún bị bắt ngày 24-12-1959 tại thôn Nậm Chà (xã Nấm Dẩn ngày nay). Trên đường giải đi, Khún chạy trốn bị ta bắn chết tại xã Xín Mần. Công tác huấn luyện chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ dân quân được duy trì thường xuyên, bên cạnh đó công tác tuyển quân luôn hoàn thành tốt. Trật tự, an ninh được giữ vững, ngành công an phối hợp chặt chẽ với lực lượng quần chúng, nâng cao cảnh giác, đập tan mọi âm mưu phá hoại của địch, theo dõi chặt chẽ mọi hành động của một số đối tượng trước đây hoạt động cho địch. Huyện ủy cùng với Ban công an các xã tổ chức các đợt học tập giáo dục đối với các thành phần địa chủ, phú nông… Đến năm 1960, công tác an ninh, quốc phòng được tăng cường, củng cố, góp phần bảo vệ tốt công tác xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương .

Trong những năm 1958-1960, phong trào quần chúng thi đua yêu nước diễn ra sôi nổi, trong đó lực lượng nòng cốt là thanh niên, học sinh, phụ nữ. Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ và các trường học phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, phong trào xóa nạn mù chữ… Các phong trào đó thực sự thu hút đông đảo quần chúng tham gia sôi nổi. Qua phong trào quần chúng xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, cá nhân xuất sắc được kết nạp vào Đảng. Đảng bộ thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng, củng cố, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nhằm bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính quyền và các đoàn thể quần chúng được củng cố vững mạnh.

Tháng 5-1960, Đảng bộ Hoàng Su Phì khai mạc Đại hội đại biểu lần thứ I với hơn 50 đại biểu tham dự. Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được có tính cơ bản làm tiền đề vững chắc cho giai đoạn sau trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước 3 năm (1958- 1960): căn bản hoàn thành cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ và cải tạo các thành phần kinh tế khác. Công tác văn hóa, xã hội có tiến bộ, công tác an ninh, quốc phòng hoàn thành tốt.

Bên cạnh những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Hoàng Su Phì đã đạt được, những khó khăn, yếu kém còn nhiều, nhất là trong sản xuất nông nghiệp, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, năng suất thấp, trình độ tổ chức quản lý các hợp tác xã còn yếu; cơ sở vật chất còn thiếu; trình độ lý luận, văn hóa, nghiệp vụ của cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn tới. Đây là những khó khăn, thử thách mà Đảng bộ và nhân dân trong huyện phải vượt qua trong giai đoạn cách mạng tới. Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành mới và đồng chí Vũ Bằng được bầu làm Bí thư Đảng bộ Hoàng Su Phì.

Ba năm tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (1958- 1960), Đảng bộ và nhân dân Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng. Thắng lợi đó càng củng cố niềm tin vững chắc của đồng bào các dân tộc vào sự nghiệp cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, động viên, cổ vũ cán bộ, đảng viên và nhân dân vùng Xín Mần đi lên hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965).

3. Phấn đấu thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, thành lập Đảng bộ Xín Mần (1961- 1965)

Tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã đề ra đường lối cách mạng Việt Nam là: đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất là nhằm mục tiêu phấn đấu xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, đồng thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Tiếp theo Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng và Đại hội Đảng bộ Khu tự trị Việt Bắc, Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Giang lần thứ III (phần II) đã họp từ ngày 17 đến ngày 25-3-1961 và ra Nghị quyết chỉ rõ: Đoàn kết nhân dân các dân tộc Hà Giang tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, tạo mọi điều kiện đưa vùng cao tiến kịp vùng thấp, vùng biên giới tiến dần lên kịp vùng nội địa, vùng hẻo lánh tiến dần lên kịp vùng tập trung, toàn tỉnh tiến kịp vùng xuôi; thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, góp phần xây dựng Khu tự trị Việt Bắc giàu mạnh, góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, trước mắt nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa vẫn là trọng tâm, đồng thời đẩy mạnh sản xuất phát triển. Tập trung mọi cố gắng để phát triển nông nghiệp toàn diện, lấy việc phát triển lương thực làm trọng tâm.

Căn cứ vào nhiệm vụ cụ thể của tỉnh đề ra, kết hợp với đặc điểm cụ thể của địa phương, trong năm 1961, Đảng bộ Hoàng Su Phì lãnh đạo nhân dân trong huyện ra sức phát triển nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, lấy phát triển nông nghiệp toàn diện làm trọng tâm, đặc biệt chú trọng trồng lúa, coi trọng hoa màu, chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, lâm nghiệp. Tiếp tục củng cố phát triển phong trào hợp tác hóa, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho nhân dân. Trong nông nghiệp, thực hiện phương châm phát triển nông nghiệp toàn diện, vững chắc là cơ sở cho công cuộc công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ và chính quyền lãnh đạo nhân dân các xã đưa tiến bộ kỹ thuật vào cấy lúa, trồng ngô. Đến năm 1963, huyện thành lập được 39 tổ khoa học kỹ thuật gồm 158 tổ viên tuyên truyền, hướng dẫn kỹ thuật cho các xã trong việc chọn giống, cấy lúa, phun thuốc trừ sâu… và cấy được 187,82 ha lúa Nam Ninh. Việc trồng ngô xuống đất ruộng là một việc làm hoàn toàn mới mẻ và mạnh dạn đưa đến kết quả đạt 273 ha (1958) lên 390,60 ha (1963). Nhờ có sự quan tâm sát sao của Đảng bộ, các cấp, các ngành nên việc gieo trồng (đặc biệt là trồng lúa) có nhiều tiến bộ: nông cụ cải tiến được đưa vào phục vụ sản xuất, phân bón, thủy lợi được chú trọng. Phong trào cải tiến nông cụ thực sự đã làm giảm nhẹ sức lao động cho người nông dân và làm tăng năng suất lao động. Năm 1963, huyện thí điểm dùng bừa sắt ở 2 xã, ngoài ra việc sử dụng các loại xe quệt, xe 4 bánh, xe cút kít… (có khoảng 404 cái) cùng với trâu, ngựa thồ đã giải phóng đôi vai người nông dân một khối lượng lớn[6], bảo đảm được 64,4% khối lượng vận chuyển. Việc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất đã tạo ra sức sản xuất phát triển, năng suất lúa, ngô, sắn tăng dần lên, đời sống nhân dân được cải thiện.

Ngoài việc sản xuất lương thực, các hợp tác xã và các hộ xã viên còn chú trọng việc chăn nuôi, nhất là gia súc trâu, bò, ngựa, để tăng sức kéo trong việc vận chuyển hàng hóa, đồng thời phát triển chăn nuôi gia cầm, phục vụ nhu cầu địa phương, cải thiện đời sống. Tuy vậy, trong điều kiện kỹ thuật còn hạn chế, tập quán chăn nuôi của đồng bào Hoàng Su Phì trong đó có vùng Xín Mần còn lạc hậu, do đó, chăn nuôi chưa có quy mô lớn.

Trên lĩnh vực nông nghiệp, huyện một mặt chú trọng đẩy mạnh sản xuất, mặt khác đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp.

Cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp ở vùng Xín Mần nói riêng, Hoàng Su Phì nói chung gặp rất nhiều khó khăn. Đây là công việc hoàn toàn mới mẻ lại được thực hiện ở một huyện miền núi với cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn rất thấp; trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật của xã viên còn yếu; trình độ quản lý của cán bộ còn kém cỏi. Tất cả những vấn đề đó khiến cho phong trào phát triển chưa toàn diện, rộng khắp. Dù có nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ huyện vẫn chủ trương tiếp tục xây dựng, củng cố hợp tác xã. Với mô hình hợp tác xã Tân Tiến, từ năm 1961 đến năm 1963 toàn huyện đã xây dựng được 107 hợp tác xã nông nghiệp, thu hút 3.170 hộ nông dân vào hợp tác xã, chiếm 43,4% hộ nông dân toàn huyện. Năm 1964, đã có tất cả là 129 hợp tác xã với 3.774 hộ, chiếm 52%. Đến đầu năm 1965, huyện xây dựng được 3 hợp tác xã bậc cao.

Phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở huyện có tác dụng làm cho sản xuất được đẩy mạnh, cán bộ quản lý lãnh đạo có tiến bộ, đời sống của xã viên được cải thiện… Hợp tác xã đã có sức thu hút được nhiều người. Nhiều gia đình tự nguyện gia nhập hợp tác xã. Tuy vậy, trong cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp, công tác giáo dục tư tưởng, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật còn yếu do trình độ của cán bộ, đảng viên còn hạn chế nên phong trào có phát triển chậm hơn so với các nơi khác trong cả nước.

Bên cạnh việc lấy phát triển nông nghiệp làm trọng tâm, Đảng bộ và các cấp chính quyền còn coi trọng đến phát triển tiểu thủ công nghiệp. Những người lao động thủ công, buôn bán nhỏ… được giác ngộ về chủ trương cải tạo, tự nguyện xin  gia nhập hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các cơ sở kinh doanh phục vụ sản xuất và thương nghiệp có tổ chức để cùng toàn dân xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Thương nghiệp quốc doanh được củng cố về mặt tổ chức và nghiệp vụ. Hoạt động thương nghiệp và buôn bán trở nên nhộn nhịp hơn. Việc giao lưu, trao đổi buôn bán giữa huyện với các khu vực khác được mở rộng. Hàng hóa trao đổi tuy còn hạn chế nhưng đã đa dạng, phong phú hơn về chủng loại. Đặc biệt là việc thương nghiệp huyện quan tâm phục vụ đồng bào dân tộc ở các vùng xa xôi, hẻo lánh của huyện, vận chuyển hàng hóa như muối, thuốc men, quần áo, đồ dùng học sinh như: giấy, bút, mực, bán lưu động phục vụ nhân dân các xã, có đối lưu hàng với nông dân. Thương nghiệp huyện tổ chức thu mua nông, lâm sản, thực phẩm của nông dân. Sự hình thành các đơn vị mậu dịch quốc doanh, các cửa hàng, hợp tác xã mua bán đã đảm bảo lưu thông hàng hóa và đáp ứng nhu cầu đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.

Có thể nói trong Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ở huyện, sản xuất nông nghiệp đã phát triển. Người nông dân tin tưởng vào con đường làm ăn tập thể. Một số ngành thủ công nghiệp, thương nghiệp đang hình thành và ngày càng được củng cố theo hướng xã hội chủ nghĩa. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập và khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế của huyện. Kinh tế của huyện trong giai đoạn này phát triển hơn hẳn so với thời kỳ chiến tranh. Đó là một thành tích to lớn mà Đảng bộ và nhân dân huyện Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần đã đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.

Song song với việc chỉ đạo sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo các hợp tác xã nông nghiệp, các tổ chức đoàn thể quần chúng tham gia phong trào trồng cây gây rừng. Đến năm 1963, Đảng bộ phát triển phong trào trồng cây (cây công nghiệp và cây ăn quả), toàn huyện trồng được 179,512ha với 271.227 cây. Năm 1964, huyện Hoàng Su Phì trồng được tất cả là 668ha với 808.834 cây, vượt trên 200% kế hoạch phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Tiêu biểu trong phong trào này là xã Thèn Phàng, bình quân mỗi lao động trồng được 29 cây. Điển hình nhất có cụ Sùng Chỉn Tín đã trồng được 3.500 cây xa mộc, ươm 31.550 cây các loại. Cụ được công nhận là chiến sĩ thi đua ngành lâm nghiệp đầu tiên của huyện Hoàng Su Phì. Bên cạnh việc trồng cây gây rừng, huyện có kế hoạch khai thác và bảo vệ rừng, chống việc phá rừng bừa bãi.

Hợp tác hóa phải đi đôi với thủy lợi hóa. Đảng bộ xác định công tác thủy lợi là biện pháp tiên quyết để phát triển sản xuất nông nghiệp. Muốn làm thủy lợi tốt phải huy động lao động tập thể khá lớn mới có thể từng bước khắc phục được điều kiện canh tác tự nhiên vốn rất khó khăn của một huyện miền núi cao. Và chỉ làm tốt công tác thủy lợi, đồng bào mới chủ động gieo trồng, mở rộng diện tích canh tác, khắc phục từng bước tình trạng du canh du cư và phát triển lúa nước. Năm 1963, Đảng bộ phát động nhân dân tập trung làm thủy lợi, đào được 58 con mương, tu sửa 2.999 con mương lớn nhỏ, dài 2.146,578 km, tưới cho 128.027 kg giống, tận dụng ruộng một vụ thành hai vụ và sử dụng tới 16.020 ngày công. Xã Thèn Phàng đạt danh hiệu xuất sắc nhất trong phong trào làm thủy lợi của huyện.

Một trong những thành tích nổi bật của huyện trong những năm 1961- 1965 là làm đường giao thông. Đảng bộ và chính quyền lãnh đạo nhân dân các dân tộc của huyện tham gia các đợt làm đường giao thông với khẩu hiệu “Vì miền Nam ruột thịt”, “Vì Lâm Đồng thân yêu”. Gái, trai, thanh niên, thiếu niên, các cụ phụ lão ngày đêm bám các sườn núi để mở đường. Sau 4 năm, nhân dân các dân tộc trong huyện đóng góp 20.000 lượt người, với 745.000 ngày công, đào 58.000 m3 đá (đặc biệt có 1.800 cụ phụ lão tự nguyện tham gia góp sức) tích cực cùng tỉnh hoàn thành con đường liên huyện Bắc Quang – Hoàng Su Phì dài 61 km mang tên tỉnh Lâm Đồng kết nghĩa. Nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, Hoàng Su Phì lập được nhiều thành tích trong việc làm đường Bắc Quang – Hoàng Su Phì. Năm 1965, Hoàng Su Phì được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba. Bên cạnh việc làm đường liên huyện, huyện còn mở thêm nhiều đường liên thôn, liên xã. Những con đường dân sinh đã được vươn dài tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Năm 1962, huyện được Ủy ban hành chính Khu tặng cờ thi đua luân lưu về công tác phát triển mạng lưới giao thông nông thôn. Năm 1963, xã Nấm Dẩn đoạt cờ “Làm giao thông khá nhất” của tỉnh Hà Giang. Năm 1964, huyện trở thành lá cờ đầu về làm đường giao thông nông thôn của tỉnh Hà Giang.

Cùng với việc phát triển về kinh tế, sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội trong những năm 1961- 1965 cũng đạt được một số thành tựu đáng phấn khởi. Giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông đã phát triển. Hầu hết các xã trong huyện đều có trường phổ thông. Năm học 1964-1965, trường phổ thông cấp I xã Chế Là đạt danh hiệu trường tiên tiến đầu tiên của huyện. Công tác xóa nạn mù chữ trong nhân dân các dân tộc và nâng cao trình độ văn hóa cho cán bộ, đảng viên được quan tâm thường xuyên. Năm 1963, xã Trung Thịnh, đơn vị có nhiều thành tích thanh toán nạn mù chữ và phong trào bổ túc văn hóa được Ủy ban hành chính tỉnh Hà Giang tặng Bằng khen. Năm 1964, huyện được báo cáo điển hình trong Hội nghị tổng kết bổ túc văn hóa Khu tự trị Việt Bắc, đạt thành tích trong công tác bình dân học vụ. Công tác bổ túc văn hóa thời kỳ này phát triển khá sâu rộng trong nhân dân. Cán bộ các cơ quan và xã viên tích cực tham gia học bổ túc văn hóa để nâng cao trình độ. Sự nghiệp giáo dục của huyện có bước tiến bộ đáng kể.

Công tác phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân được các cấp ủy đảng, chính quyền huyện chú trọng hơn. Cán bộ y tế huyện tuyên truyền trong nhân dân ý thức phòng chống bệnh, giữ gìn vệ sinh. Việc dời chuồng gia súc ra xa nơi ở, làm hố xí hợp vệ sinh, thực hiện ăn chín, uống nước sôi, dùng thuốc phòng bệnh trở thành phong trào trong huyện. Toàn huyện năm 1963 có 17 trạm xá xã, năm 1964 có 20 trạm xá xã. Các trạm xá hoạt động tương đối đều đặn. Bệnh viện huyện đã phẫu thuật được ca ruột thừa, những ca sinh đẻ khó ngày một phổ biến giúp đồng bào tin tưởng vào khoa học hiện đại. Qua đó, nạn mê tín dị đoan giảm dần. Huyện tổ chức lớp học “Bài trừ mê tín” cho 66 thầy cúng trong huyện, tất cả đều nhất trí ghi tên bỏ nghề. Một số bệnh hiểm nghèo (sốt rét, tả, đậu mùa) căn bản bị đẩy lùi.

Để phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng sự phát triển của phong trào cách mạng của mỗi xã, ngày 30-4-1962, Hội đồng Chính phủ có Quyết định số 50-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính:

- Chia xã Bản Máy thành 5 xã mới là xã Bản Máy, Thàng Tín, Bản Pắng, Bản Phùng, Nàn Sỉn.

- Chia xã Chí Cà thành 2 xã mới: xã Chí Cà, xã Pà Vầy Sủ.

- Chia xã Cốc Pài thành 3 xã mới là xã Cốc Pài, Nàn Ma, Bản Ngò.

- Chia xã Chế Là thành 4 xã mới là xã Chế Là, Nấm Dẩn, Tả Nhìu, Cốc Rế.

- Chia xã Trung Thịnh thành 6 xã mới là xã Thu Tà, Ngán Chiên, Trung Thịnh, Nàng Đôn, Pờ Ly Ngài, Việt Thái.

Ngày 15-12-1962, Chính phủ chia tiếp xã Khuôn Lùng thành 4 xã mới là xã Khuôn Lùng, Quảng Nguyên, Nà Chì, Bản Rịa.

Như vậy, từ đầu năm 1962 đến tháng 2-1963, việc điều chỉnh địa giới hành chính các xã đã được thực hiện xong và hoàn thành chính xác, nhanh chóng. 14 xã của huyện Hoàng Su Phì đã chia thành 39 xã phù hợp với khả năng lãnh đạo, quản lý về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như việc bảo vệ biên giới, trật tự, an ninh của các cấp ủy đảng và chính quyền các xã. Việc chia nhỏ xã tạo điều kiện thuận lợi cho sự đẩy mạnh hơn nữa tốc độ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên địa bàn huyện.

Sau khi điều chỉnh địa giới của một số xã trong huyện, chính quyền dân chủ nhân dân và tổ chức quần chúng được củng cố, hoạt động có hiệu quả hơn, uy tín của Đảng được nâng cao. Hội đồng nhân dân từ huyện đến xã bước đầu đi vào nền nếp, được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông do Đảng lãnh đạo, thể hiện rõ tính dân chủ, bình đẳng. Năm 1964, huyện Hoàng Su Phì đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã, thu được kết quả tốt, bầu được 858 đại biểu Hội đồng nhân dân xã, 219 ủy viên Ủy ban hành chính xã (dân tộc thiểu số chiếm 98,96%). Hội đồng nhân dân huyện có 51 đại biểu đáp ứng nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở địa phương. Một số đồng chí được cử đi học ở trường Đảng của huyện, tỉnh nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm, chấp hành mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền trong nhân dân về ý thức xây dựng chủ nghĩa xã hội; ý thức bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân xã hội chủ nghĩa.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, công tác Mặt trận được đẩy mạnh. Nhiệm vụ của Mặt trận là tiếp tục vận động, giáo dục các tầng lớp nhân dân các dân tộc thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ như: Xây dựng hợp tác xã, phát triển sản xuất, văn hóa… Công tác thanh niên được cấp ủy quan tâm thường xuyên. Thanh niên “3 sẵn sàng” tham gia trong mọi hoạt động như sản xuất, chăn nuôi, làm phân xanh, thủy lợi, làm đường, bổ túc văn hóa. Hội phụ nữ của huyện, năm 1963, có 1979 chị em tham gia. Năm 1964, có 1.253 chị em. Hội phụ nữ “3 đảm đang” tích cực tham gia sản xuất, học bổ túc văn hóa, vận động con em tòng quân phục vụ chiến dịch và chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Các cụ phụ lão đi đầu trong việc động viên con cháu nhập ngũ và trồng cây tu bổ rừng…

Các tổ chức đoàn thể quần chúng tham gia vào mọi hoạt động của phong trào cách mạng, có tác dụng giáo dục, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhân dân các dân tộc huyện Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Xín Mần.

Cùng với việc củng cố và xây dựng sự nhất trí về chính trị trong toàn Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong huyện, Đảng bộ đã quán triệt sâu sắc công tác quân sự địa phương. Với đặc điểm của một huyện miền núi, giáp biên giới Việt – Trung, địa hình hiểm trở, phức tạp, một số xã hẻo lánh, bọn thổ phỉ, đặc vụ phản động có những hành động tuyên truyền, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ ta, khủng bố tinh thần, đe dọa tính mạng, cướp bóc của cải của đồng bào, phá hoại cơ sở đảng, chính quyền và tổ chức quần chúng của ta, Đảng bộ Hoàng Su Phì quán triệt chủ trương vừa tăng cường phát triển sản xuất, đồng thời chăm lo củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an, chủ động tiêu diệt địch, đập tan âm mưu phá hoại của bọn phỉ và phản động. Trong những năm 1961- 1962, Đảng bộ Hoàng Su Phì đã có kế hoạch chỉ đạo phối hợp giữa các ngành công an, quân đội và các cấp chính quyền cùng tham gia chiến dịch tiễu phỉ, bảo vệ địa bàn của ta.

Dưới sự lãnh đạo của Khu ủy, dân quân du kích của huyện cùng với bộ đội chủ lực của tỉnh Hà Giang phối hợp với tỉnh Lào Cai, Cao Bằng và nước bạn tiến hành chiến dịch tiễu phỉ, chấn phản cuối năm 1961 đầu năm 1962. Ta tiêu diệt được 2 tên đầu sỏ, 4 tên ra hàng, thu 7 súng và một số dao găm, đạn, cải tạo được 94 cơ sở phỉ thành những người tốt.

Thắng lợi của chiến dịch tiễu phỉ, chấn phản cuối năm 1961 đầu năm 1962 là một sự kiện có ý nghĩa kết thúc về cơ bản sự tồn tại hoạt động của tàn quân phỉ và công tác tiễu phỉ ở Hoàng Su Phì nói chung, vùng Xín Mần nói riêng. Vừa chiến đấu vừa xây dựng, sau khi kết thúc chiến dịch tiễu phỉ, Đảng bộ lãnh đạo nhân dân giải quyết tiếp những nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở địa phương và từng bước đưa đồng bào các dân tộc đi lên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Ngày 26-7-1964, Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng bộ Hoàng Su Phì được tiến hành. Đến Đại hội IV, toàn Đảng bộ có 608 đảng viên, sinh hoạt trong 45 chi bộ và 2 tổ đảng. Nghị quyết của Đại hội tập trung vào việc quán triệt vấn đề phát triển nông nghiệp của huyện và phấn đấu hoàn thành những chỉ tiêu của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961- 1965) do huyện đề ra. Đảng bộ đã kiểm điểm và đề ra phương hướng công tác, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, đoàn kết nội bộ, thực hiện cuộc vận động xây dựng chi bộ 4 tốt. Tại Đại hội, đồng chí Nguyễn Bình Địch được bầu làm Bí thư Đảng bộ huyện.

Đảng bộ luôn luôn chú trọng công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức trong Đảng, nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bộ. Trong những năm 1961- 1965, các chi bộ đảng của vùng Xín Mần không ngừng được củng cố phù hợp với đơn vị công tác của đảng viên trên các lĩnh vực nông nghiệp, ngành nghề thủ công, thương nghiệp, trường học, cơ quan… Đa số đảng viên được bồi dưỡng lý luận, tham gia các lớp huấn luyện chính trị của khu, tỉnh, huyện. Chất lượng đảng viên tăng lên rõ rệt. Sự trưởng thành của các chi bộ thể hiện trong vai trò lãnh đạo các mặt chính trị, kinh tế. văn hóa, xã hội ở địa phương. Các chi bộ đã làm tốt vai trò động viên tổ chức quần chúng thực hiện phong trào sản xuất, hợp tác hóa, chấp hành các chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy vậy, một số đảng viên của các chi bộ ở vùng Xín Mần do trình độ văn hóa còn thấp nên ảnh hưởng không nhỏ tới việc phát huy vai trò gương mẫu. Việt phát triển đảng chưa được đồng đều, nhưng tới những năm cuối của Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, công tác này được chú ý hơn. Số lượng đảng viên (tháng 5-1960) từ 50 đảng viên lên tới 523 đảng viên (tháng 7-1964), tuy con số chưa phải là lớn nhưng nó đã khẳng định Đảng bộ Hoàng Su Phì luôn vươn lên bằng đấu tranh phê bình và tự phê bình, đủ sức lãnh đạo nhân dân các dân tộc trong huyện vượt qua mọi khó khăn thử thách trong thời kỳ này.

Đến năm 1965, trước yêu cầu bức thiết của nhiệm vụ cách mạng trong địa phương, do điều kiện tự nhiên và trình độ phát triển ở mỗi vùng khác nhau, để tạo điều kiện thuận lợi cho việc lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng địa phương, ngày 1-4-1965, Chính phủ ra Quyết định số 49-CP về việc chia tách huyện Hoàng Su Phì thành 2 huyện mới lấy tên là Hoàng Su Phì và Xín Mần. Huyện Xín Mần bao gồm 18 xã[7] với 3.060 hộ có 23.745 nhân khẩu của 8 dân tộc: Tày, Nùng, Mông, Dao, Hán, La Chí, Phù Lá, Kinh. Trung tâm huyện lỵ đặt tại xã Xín Mần[8]. Đồng chí Hoàng Ngọc Lâm được Tỉnh ủy Hà Giang chỉ định làm Bí thư Huyện ủy đầu tiên và đồng chí Lò Quáng Hòa giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Xín Mần.

 

CHƯƠNG II

ĐẢNG BỘ XÍN MẦN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TÍCH CỰC THAM GIA KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

(1965- 1975)

I- ĐẢNG BỘ XÍN MẦN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN
CHUYỂN TỪ THỜI BÌNH SANG THỜI CHIẾN, GÓP PHẦN CÙNG CẢ NƯỚC ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
(1965- 1968)

Đế quốc Mỹ bị thua đau trên chiến trường miền Nam nên chúng điên cuồng đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược, mở rộng đánh phá ra miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chúng dùng lực lượng không quân và hải quân đánh phá hậu phương lớn miền Bắc, nhằm ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam. Đồng thời, trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” ồ ạt đổ quân vào miền Nam nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng của ta. Trước tình thế đó, tháng 12-1965, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa III họp Hội nghị lần thứ 12 ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ mới.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 12 của Trung ương, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Giang đã chuyển hướng nhiệm vụ chiến lược, đặt mọi hoạt động của toàn tỉnh vào hoàn cảnh cả nước có chiến tranh, và đề ra nhiệm vụ phù hợp với tình hình mới: vừa đẩy mạnh sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội ở địa phương, vừa tăng cường chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Quán triệt Nghị quyết của Trung ương và của tỉnh, Huyện ủy Xín Mần đã họp đề ra nhiệm vụ cấp bách cho Đảng bộ và nhân dân trong huyện lúc này là: 1) Tích cực vận động nhân dân tham gia sản xuất, vận động sơ tán để phòng tránh máy bay địch bắn phá, phân tán kho lương thực về Thèn Phàng, Bản Díu, Xín Mần và cửa hàng thương nghiệp phân tán những mặt hàng chủ yếu: vải, dầu, muối… về 6 hợp tác xã mua bán, di chuyển chợ xuống rừng thông và cho họp chợ đến 9 giờ sáng… để phòng tránh thiệt hại về người và của khi chiến sự xảy ra. 2) Làm tốt chính sách hậu phương quân đội, vận động thanh niên lên đường giết giặc, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng quân dân du kích vững mạnh để bảo vệ địa phương. 3) Phát động phong trào thi đua yêu nước, giết giặc lập công sâu rộng trong nhân dân. 4) Làm tốt công tác giác dục tư tưởng. 5) Tăng cường củng cố tổ chức cơ sở đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng vững mạnh. 6) Mọi hoạt động của Đảng bộ và nhân dân huyện Xín Mần trước hết là tập trung vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, sẵn sàng chi viện cho miền Nam.

Ngày 25-12-1965, tại Cốc Pài, Đảng bộ đã chỉ đạo tổ chức Đại hội sản xuất đông – xuân nhằm đánh giá các mặt công tác. Năm 1965, 1966 do thời tiết không thuận lợi (mưa đá…) nên nông nghiệp ở Xín Mần mới chỉ đạt và vượt năng suất ở một số loại như: lúa mùa đạt 103,22%, lúa nương đạt 149%, tam giác mạch đạt 134,06%, sắn đạt 143,67%, khoai sọ đạt 101%, còn đậu tương bị thiệt hại nặng. Nhìn chung, năm 1965, do hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, trình độ canh tác ở mỗi xã, mỗi vùng cũng khác nhau nên việc áp dụng các quy trình khoa học vào sản xuất rất hạn chế, làm cho tổng sản lượng lương thực thu được chưa đạt kế hoạch. Sang năm 1966, thực hiện chỉ thị của Trung ương, Nghị quyết của Tỉnh ủy, Huyện ủy, phong trào lao động sản xuất trở nên sôi nổi, khẩn trương. Huyện phát động đợt thi đua đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp với khẩu hiệu “Năng suất cao, hoa màu nhiều, chăn nuôi giỏi, cây công nghiệp tăng”. Vụ mùa, toàn huyện cấp được 1.545 ha, đất trồng ngô được chuyển thành 2 vụ, vụ xuân trồng được 2.090 ha, vụ thu trồng gần 400 ha; diện tích trồng sắn đạt 346 ha; dong riềng trồng 468 ha; khoai sọ 62 ha; khoai lang 200 ha. Năm 1967, diện tích lúa Nam Ninh đạt 112%, diện tích lúa mùa đạt 98,33%, tam giác mạch đạt 94,5%, đậu tương ruộng 114%, sắn đạt 70%, dong riềng đạt 55%, khoai sọ đạt 85%, khoai lang đạt 3,7% so với kế hoạch. Năm 1967 do hạn hạn kéo dài, lại không bố trí nhân lực kịp thời vụ, phân bón quá ít, giống bị thoái hóa, trời rét, nên năng suất bị giảm, trung bình đạt từ 40- 45kg/1kg giống. Riêng hợp tác xã Lung Mẩu đạt 23 tạ/ha, xã Thèn Phàng đạt năng suất cao nhất bình quân 47 kg/1kg giống. Số phân bón cho cây đạt mức bình quân là 81,64 kg/1kg giống. Nơi đạt mức phân bón cho cây trồng cao nhất là Nàn Ma đạt 157 kg/1kg giống. Năm 1968, huyện đã áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật để phát triển nông nghiệp từ khâu làm đất, chọn giống, chế biến phân và trồng chuyên canh có 12 xã cấy trồng lúa, 6 xã trồng vừa ngô vừa lúa, thí điểm làm ruộng cao sản ở một số xã. Kết quả năm 1968 diện tích và sản lượng cây lương thực và thực phẩm tăng so với trước, diện tích lúa ruộng là 1.551,10 ha, năng suất đạt 20,02 tạ/ha, diện tích lúa nương là 146,60 ha, năng suất đạt 13,95 tạ/ha (5 xã Nấm Dẩn, Thèn Phàng, Bản Díu, Cốc Pài, Tả Nhìu đạt 22- 26 tạ/ha một vụ, 35 hợp tác xã đạt 22,31 tạ/ha một vụ). Do sản xuất của huyện đi vào thâm canh lúa, ngô, đậu tương có năng suất cao nên diện tích lúa nương giảm dần, năm 1968 còn 51,40% so với năm 1967, lúa Nam Ninh giữ nguyên diện tích 120 ha như năm 1967, diện tích trồng ngô là 2.115,53 ha, năng suất đạt 8,19 tạ/ha (có 11 xã đạt 8,10 tạ - 9,75 tạ/ha); đậu tương trồng 397,89 ha, năng suất trung bình đạt 4,52 tạ/ha. Ngoài ra, huyện còn phát triển thêm hoa màu như sắn, mạch, khoai…

Huyện chỉ đạo làm ruộng cao sản ở hợp tác xã Na Lan, xã Tả Nhìu, lúa nương một vụ gieo 50,5 kg giống thu hoạch được 4.566 kg đạt 37 tạ/ha tăng 21% so với năm 1967; ngô trồng trên diện tích 3,69 ha năng suất cao sản đạt 51,30 tạ/ha; bảo đảm 20 tấn phân/ha. Đợt làm thí điểm ruộng cao sản này đã cho mọi người thấy khả năng đất đai của huyện Xín Mần nếu được áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, đầu tư tốt và thâm canh thì bảo đảm đạt năng suất cao.

 Huyện đã đưa cán bộ xuống xã chỉ đạo và mở các hội nghị tập huấn về việc chọn giống, làm đất cấy, chế biến phân, làm cỏ 2 lần trên toàn bộ diện tích lúa, ngô, đậu tương, cấy mật độ dày hơn trước, sử dụng tuổi mạ đúng thời hạn nhằm giúp cho xã viên các hợp tác xã có những kiến thức cơ bản trong sản xuất nông nghiệp, đưa năng suất đạt cao hơn nữa. Trong đợt này có các xã Bản Díu, Tả Nhìu, Cốc Rế thực hiện tốt việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc cấy, trồng.

Nhìn chung, nông nghiệp Xín Mần từ năm 1965 đến năm 1968 đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Với phong trào thi đua đẩy mạnh sản xuất, tăng vụ, chuyên canh, thâm canh, nên sản lượng cây lương thực, thực phẩm tăng. Đời sống nhân dân được ổn định, đồng thời đạt chỉ tiêu đóng góp thóc ba thu… cho Nhà nước. Cùng với nông nghiệp là thủy lợi. Thủy lợi là nhân tố hàng đầu quyết định sản lượng nông nghiệp nên Đảng bộ đã phát động phong trào làm thủy lợi. Đến năm 1966, cả huyện làm được 33 mương mới dài khoảng 32 km, bảo đảm tưới tiêu cho diện tích 138,7 ha. Tháng 5-1966, huyện khởi công công trình trung thủy nông xã Thèn Phàng. Trong 2 năm 1967-1968, huyện huy động được 85.033 công làm thủy lợi, bình quân mỗi lao động đầu tư cho thủy lợi 7 công. Việc phát triển thủy lợi đã giúp cho 1.630 ha ruộng có điều kiện thuận lợi trong việc tưới tiêu đồng ruộng và cung cấp nước sạch cho nhân dân sinh hoạt.

Phong trào hợp tác xã của huyện vẫn được tiếp tục xây dựng và phát triển. Đến tháng 8-1965, toàn huyện có 92 hợp tác xã nông nghiệp thì trong đó có 5 xã: Bản Díu, Chí Cà, Pà Vầy Sủ, Bản Phùng, Nàn Sỉn hoàn thành hợp tác xã nông nghiệp bậc cao. Số hộ nông dân vào hợp tác xã chiếm 73,74%. Số hợp tác xã đạt loại khá có 21 hợp tác xã, loại trung bình có 36 hợp tác xã, loại kém có 9 hợp tác xã. Đại hội sản xuất đông - xuân (25-12-1965) nhận định: do huyện còn chưa có kinh nghiệm chỉ đạo, ý thức làm chủ chưa cao nên phong trào chưa thực sự vững mạnh. Tuy vậy, một số hợp tác xã ở Chế Là, Thèn Phàng, Ngán Chiên, Xín Mần vẫn chủ động tận dụng nguồn phân bón để trồng cây đạt 161 kg/1kg giống; gieo cấy đúng thời vụ, làm cỏ nhiều lần, phòng trừ sâu bệnh tốt; tích cực làm thủy lợi. Điển hình có hợp tác xã Nà Lũng (Bản Díu) đạt năng suất 26 tạ/ha.

Cùng với việc xây dựng, củng cố và phát triển hợp tác xã, Đảng bộ còn chú trọng đến công tác vận động đồng bào định canh, định cư, quản lý lao động và chỉ đạo điển hình.

Cuối năm 1966, huyện đã căn bản hoàn thành hợp tác xã bậc thấp, có 93% số hộ nông dân lao động vào làm ăn tập thể. Còn 200 hộ huyện giao cho xã vận động bà con tự nguyện vào hợp tác xã.

Năm 1967, nhiệm vụ trọng tâm của huyện là xây dựng hợp tác xã bậc cao và củng cố hợp tác xã, đưa 45% hợp tác xã bậc thấp lên hợp tác xã bậc cao, đưa ba quản, ba khoán vào hợp tác xã. Huyện chỉ đạo thí điểm “cải tiến quản lý hợp tác xã” ở Bản Díu. Sau khi kết thúc, huyện đã tổng kết, rút kinh nghiệm và vạch ra phương hướng phát triển sản xuất của các hợp tác xã. Huyện đã cử một số đồng chí đi học lớp huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ có trình độ lãnh đạo, quản lý hợp tác xã để nâng cao nghiệp vụ quản lý, tổ chức. Công tác giáo dục tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, xã viên được chú trọng nên tạo ra được sự chuyển biến tốt, đưa công tác quản lý sản xuất, kỹ thuật lao động, tài vụ lên một bước.

Năm 1968, toàn huyện có 124 hợp tác xã nông nghiệp, có 4.439 hộ gồm 25.961 nhân khẩu chiếm 97,24% so với số hộ toàn huyện, trong đó có 29 hợp tác xã bậc cao. Việc quản lý và điều hành sản xuất của các hợp tác xã có nhiều tiến bộ, đã thành lập được các tổ sản xuất theo hướng chuyên môn hóa như: đội khai hoang, thủy lợi, chăn nuôi…

Sau 2 năm khai hoang, huyện thành lập được thêm 2 hợp tác xã, với 50 hộ, 272 nhân khẩu, gieo trồng được 461 kg giống ngô nương, 100 kg giống lúa ruộng. Nhà nước đầu tư 4.010 đồng để mua sắm tư liệu sản xuất, nhân dân đã tự túc được 80% lương thực. Xã viên hợp tác xã làm ăn tập thể đã nhận được sự giúp đỡ của Đảng và Chính phủ trong lúc ban đầu, tạo điều kiện phát triển sản xuất.

Trong năm 1968, Xín Mần có 3 hợp tác xã tiên tiến được Ủy ban hành chính tỉnh tặng Bằng khen: Hợp tác xã Lung Mẩu, xã Nấm Dẩn; hợp tác xã Quán Thèn, xã Bản Díu, năng suất đạt 25,19 tạ/ha một vụ; hợp tác xã Lung Mẩu, xã Tả Nhìu đạt năng suất 27,16 tạ/ha một vụ. 7 xã tiến hành cải tiến quản lý hợp tác xã. Hai xã tiến hành củng cố hợp tác xã là Cốc Pài, Bản Ngò. Phong trào vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật của huyện mới có bề rộng, chưa có bề sâu, hợp tác xã tiên tiến còn ít, chưa xây dựng được hợp tác xã kiểu mẫu, chỉ tiêu kế hoạch đề ra chưa sát, khoa học kỹ thuật chưa được coi trọng, trình độ quản lý, phân phối và năng lực lãnh đạo của cán bộ hợp tác xã còn yếu do trình độ văn hóa, nghiệp vụ còn thấp. Song, với những thành tựu mà Đảng bộ và nhân dân Xín Mần đạt được, cùng với sự khắc phục những khuyết điểm, tồn tại sẽ đưa phong trào hợp tác hóa đi lên.

Cùng với sự phát triển của phong trào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi cũng được quan tâm. Trong những năm 1965-1966, chăn nuôi của huyện chủ yếu phân tán theo hộ gia đình. Hợp tác xã cho vay vốn để mua giống phát triển chăn nuôi. Năm 1967, chăn nuôi chưa đạt được kế hoạch của huyện đề ra do: chuồng trại chưa bảo đảm quy cách, chết rét, chết dịch, thiếu thức ăn, việc chỉ đạo còn lúng túng. Đến năm 1968, Đảng bộ đã kịp thời chỉ đạo, tập trung phòng dịch và chống dịch bệnh cho gia súc. Kết quả đàn gia súc của huyện phát triển. So với năm 1967, năm 1968, đàn trâu có 6.159 con, tăng 76%, đàn bò có 570 con đạt 76,07%, đàn ngựa có 4.165 con đạt 113,29%, đàn dê có 3.102 con và 9.020 con lợn. Tăng thêm sức kéo, cải thiện đời sống nhân dân và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Xín Mần là huyện vùng cao có nhiều khả năng trồng cây công nghiệp. Sau ngày thành lập huyện, Đảng bộ và chính quyền đã chỉ đạo khoanh một số vùng chuyên trồng cây công nghiệp như các xã Pà Vầy Sủ, Chí Cà, Nàn Ma trồng cây đậu tương, các xã Thu Tà, Cốc Rế, Nấm Dẩn, Chế Là, Tả Nhìu, Bản Ngò trồng bông. Năm 1966, huyện trồng được 180 ha bông, 33 ha chè, 25 ha thuốc lá, 100 ha mía, 441 ha đậu tương. Huyện đề ra phong trào mỗi gia đình trồng 1 cây trẩu. Năm 1968, có 6 xã: Thu Tà, Cốc Rế, Tả Nhìu, Chế Là, Nấm Dẩn, Bản Ngò đã trồng được 50 ha chè. Ngoài ra, huyện còn chú ý phát triển một số cây dược liệu quý như trồng cây xuyên khung, huyền sâm, tam thất, ú tẩu ở Xín Mần, Nàn Sỉn, Nàn Ma.

Đối với lâm nghiệp, từ năm 1965- 1968, huyện có những chuyển biến mới, mức độ trồng rừng năm 1968 có tiến bộ hơn trước. Núi đồi Xín Mần dần được che phủ. Song so với yêu cầu, còn một số xã chưa đạt chỉ tiêu đề ra. Nạn phá rừng vẫn còn tồn tại. Đảng bộ đã chỉ đạo bằng mọi biện pháp để ngăn chặn, so với trước có giảm nhưng chưa ngăn được triệt để.

Tiểu thủ công nghiệp ở Xín Mần còn nhỏ bé. Huyện thành lập được 4 tổ rèn, 2 lò đúc. Cung cấp cho địa phương một số loại nông cụ phục vụ nhu cầu sản xuất như: dao, bừa, lưỡi cày…

Về giao thông vận tải, từ năm 1965 - 1968, ngoài việc tiếp tục sửa chữa, mở rộng các tuyến đường cũ, huyện còn phát động phong trào làm đường nông thôn. Năm 1965, mở đường mới, sửa chữa đường cũ được 455 km, hết 10.135 công, làm 12 cái cầu mới bắc qua sông, suối trong huyện. Đến năm 1967 - 1968, huyện đã hoàn thành 30 km đường Hoàng Su Phì - Xín Mần. Phong trào đã được nhân dân nhiệt tình hưởng ứng. Các xã đều vận động nhân dân làm đường, nối liền xã với huyện. Nhân dân sửa chữa con đường từ Bản Díu đi Hoàng Su Phì. Huyện thành lập ở mỗi một hợp tác xã một tổ ngựa thồ để vận chuyển hàng hóa, đáp ứng tối thiểu những nhu cầu thiết yếu của đời sống nhân dân.

Năm 1965 - 1966, thương nghiệp, dịch vụ của huyện gặp nhiều khó khăn. Các cửa hàng mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán, chợ phải phân tán nhỏ để phục vụ nhân dân, mọi hoạt động đều phải tránh giờ phòng không cao điểm… Công tác quản lý thị trường gặp nhiều khó khăn. Hoạt động thương nghiệp có phần giảm sút. Đến năm 1967 - 1968, ngành thương nghiệp đã có nhiều cố gắng trong khâu phân phối và quản lý hàng hóa và các mặt hàng chủ yếu, phục vụ nông thôn, góp phần quản lý tiền tệ và ổn định giá cả. Tổng giá trị thu mua nông sản của huyện trong 2 năm 1967 - 1968 đạt 607.633 đồng. Ngoài các cửa hàng mậu dịch quốc doanh, huyện còn có mạng lưới hợp tác xã mua bán ở hầu hết tất cả các xã. Mạng lưới này hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh, bán những mặt hàng cần thiết như muối, dầu hỏa, vải mặc, nông cụ sản xuất ngay tại địa phương, phục vụ kịp thời, thuận tiện cho bà con yên tâm sản xuất.

Công tác tài chính, tiền tệ, tín dụng và thanh toán chiếm vị trí quan trọng. Công tác thu chi của huyện đã có kế hoạch. Năm 1968, tổng thu tiền mặt đạt 1.015.000 đồng, tổng chi tiền mặt đạt 895.000 đồng. Hợp tác xã tín dụng giúp ngân hàng hỗ trợ vốn cho hợp tác xã nông nghiệp tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, phục vụ thâm canh tăng năng suất, góp vốn xây dựng nhà cửa, kho, sân phơi, chuồng trại, v.v. đáp ứng phần lớn nhu cầu vốn của hợp tác xã nông nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Công tác tài chính trong 2 năm 1967- 1968 đạt mức tổng thu là 250.706 đồng, tổng chi là 641.396 đồng, như vậy, nguồn thu của huyện mới chiếm 41,4%.

Về văn hóa, xã hội, Xín Mần đã có bước phát triển mới. Quán triệt tinh thần cuộc cách mạng văn hóa tư tưởng của Đảng, Huyện ủy thường xuyên quan tâm chỉ đạo việc tuyên truyền xây dựng nếp sống mới, bài trừ mê tín dị đoan, góp phần thúc đẩy ba cuộc cách mạng ở miền Bắc. Hệ thống thông tin được mở rộng đến một số xã trong huyện, đưa tin về sản xuất, về chiến đấu và chiến thắng ở các chiến trường. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng phát triển rầm rộ. Huyện xây dựng được 10 đội văn nghệ với 205 diễn viên, gồm 237 tiết mục, biểu diễn 27 tối phục vụ trên 3.300 lượt người xem. Lời ca tiếng hát đã cổ vũ lớn trong lao động sản xuất. Chiếu bóng được 255 buổi đạt 110% kế hoạch, phục vụ 78.789 lượt người xem đạt 175% kế hoạch, doanh thu đạt 279%.

Ngành y tế của huyện cũng có nhiều cố gắng. Năm 1965- 1966, bệnh viện huyện được xây dựng xong và đi vào hoạt động, các trạm xá của xã được củng cố. Đội ngũ thày thuốc luôn được quan tâm và bồi dưỡng về nghiệp vụ. Tuy vậy, việc khám, chữa bệnh, phòng chống dịch bệnh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân trong huyện.

Công tác giáo dục được đẩy mạnh. Trong năm học 1965-1966, Đảng bộ ra nghị quyết trong đó đề ra các chỉ tiêu: phải thanh toán nạn mù chữ cho cán bộ, đảng viên, nhân dân với tổng số 2.973 người, bổ túc văn hóa cho 998 người, đến năm học 1967 - 1968, trẻ em đến tuổi được đi học vỡ lòng, 75% số người trong độ tuổi thanh toán mù chữ, 100% cán bộ, đảng viên, đoàn viên phải biết chữ, củng cố trường cấp II Thèn Phàng. Năm học 1968- 1969, huyện có 3 trường cấp II với 46 học sinh. Toàn huyện có 9 xã phổ cập cấp I. Có 54 lớp 1 với 1.037 học sinh; có 78 lớp vỡ lòng với 1.449 học sinh; có 3 xã mở 6 lớp mẫu giáo với 54 cháu; lớp bình dân học vụ có 7 xã thanh toán xong nạn mù chữ. Riêng xã Nàn Ma thanh toán bằng chữ Mông; trường bổ túc văn hóa chiêu sinh được 47 học viên; trường thanh niên dân tộc có 48 học viên. Cuối năm 1968, toàn huyện có 496 đảng viên, 149 đoàn viên, cán bộ xã và 2.074 người dân mù chữ.

Về công tác trật tự, an ninh, quốc phòng, Xín Mần là một huyện biên giới nên công tác này càng được coi trọng. Ngay đầu năm 1966, Huyện ủy quyết định tất cả ruộng nương của nhân dân ta đã và đang làm ở trên đất bạn phải bỏ hẳn, không tính toán bồi thường. Nghiêm cấm việc sang đất bạn lấy củi, cỏ gianh về lợp nhà, Riêng con mương của nước bạn đào ở Bản Máy qua đất ta 300 mét, cần phải giải thích để đồng bào tạm thời cho họ có thể cày cấy được. Giải quyết tốt việc này góp phần giữ gìn tình hữu nghị giữa Việt Nam – Trung Quốc.

Trước tình hình đế quốc Mỹ tiếp tục tăng cường cho máy bay bắn phá miền Bắc, thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương, Quân khu Việt Bắc, Tỉnh ủy, Huyện ủy đã ra Nghị quyết số 49-NQ/HU ngày 5-5-1968, đề ra nhiệm vụ quân sự của huyện lúc này là: 1) Quyết tâm xây dựng huyện nhà trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn. 2) Giàu có về kinh tế, vững chắc về chính trị, mạnh mẽ về quốc phòng. 3) Trước mắt tập trung thực hiện nhiệm vụ cấp bách là chống máy bay địch, tuyển quân, xây dựng lực lượng, củng cố và tăng cường công tác quản lý biên giới, quản lý chặt chẽ công tác hộ khẩu. 4) Công tác tổ chức, giáo dục tư tưởng và rèn luyện chiến thuật, kỹ thuật được Đảng bộ và chính quyền quan tâm thường xuyên.

Đến cuối năm 1968, lực lượng dân quân tự vệ trong huyện có 3.180 người (594 nữ, 496 đảng viên, 347 đoàn viên). Hưởng ứng lời kêu gọi toàn dân chống Mỹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, Đảng bộ và nhân dân huyện Xín Mần đã động viên con em lên đường đánh Mỹ. Năm 1968, huyện tổ chức 2 đợt khám nghĩa vụ quân sự cho 2.181 người, có 232 thanh niên các dân tộc thiểu số đạt tiêu chuẩn và nhập ngũ. Mỗi lần tuyển quân, cả huyện như một ngày hội, những thanh niên lên đường được xã tổ chức tiễn đưa long trọng. Huyện thành lập tiểu đội, trung đội cơ động chiến đấu, được huấn luyện chiến thuật bắn máy bay bay thấp và chống biệt kích thám báo, v.v. mặc dù thời gian huấn luyện ngắn, khẩn trương, nhưng đạt kết quả cao, nhiều người đạt loại khá, giỏi, số còn lại đạt yêu cầu. Năm 1968, chiến sĩ Thào Chư Van, xã Pà Vầy Sủ đạt danh hiệu chiến sĩ quyết thắng. Lực lượng hậu bị cũng được tăng cường, đặc biệt chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở cả về số lượng và chất lượng, thay thế một số cán bộ yếu kém. Số đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ ngày càng tăng, lực lượng tự vệ ở các cơ quan, nông, lâm trường, xí nghiệp, được huấn luyện kịp thời sẵn sàng đối phó với mọi tình huống xảy ra.

Trong lúc toàn Đảng bộ và nhân dân tập trung vào sản xuất, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện cao nhất sức người, sức của, góp phần giải phóng miền Nam, ngày 5-1-1967, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Xín Mần lần thứ I khai mạc. Đại hội đã kiểm điểm công tác cụ thể là nâng cao hơn nữa mức sống nhân dân về mọi mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt phải áp dụng ba quản, ba khoán vào sản xuất, đưa nền kinh tế phát triển, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ, tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến.

Đại hội còn nhấn mạnh về công tác xây dựng Đảng, nêu cao tinh thần đoàn kết, cùng nhau xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo phong trào.

Đại hội đã bầu đồng chí Hoàng Ngọc Lâm làm Bí thư Huyện ủy và bầu 15 đồng chí chính thức, 1 đồng chí dự khuyết vào Ban Chấp hành.

Sau Đại hội, công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh, đặc biệt là công tác phát triển Đảng. Chỉ tính trong 2 năm 1967 - 1968, toàn huyện đã chọn, bồi dưỡng và kết nạp được 184 đảng viên mới, đạt 84% kế hoạch đề ra. Tuy vậy, cả huyện mới có 114 hợp tác xã có đảng viên, còn 11 hợp tác xã “trắng” chưa có đảng viên. Trong 345 đội sản xuất còn 158 đội chưa có đảng viên. Đảng viên chiếm tỷ lệ 1,54% số dân. Để nâng cao hơn nữa chất lượng đảng viên, từ năm 1965 đến năm 1968, huyện mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị, giáo dục đảng viên trong toàn Đảng bộ như thông qua Đại hội sản xuất đông - xuân, quán triệt lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966, Hội nghị học tập chính trị đầu xuân 1968. Đảng bộ còn tổ chức quán triệt Nghị quyết về xây dựng chi bộ 4 tốt, huyện ủy 4 tốt, đảng viên 4 tốt… và được các đảng viên tích cực thực hiện. Cuối năm 1968, huyện có 4 chi bộ 11,76% đạt 4 tốt, 16 chi bộ khá, 11 chi bộ trung bình, 3 chi bộ kém. Đảng viên đạt 4 tốt có 206 đồng chí, đạt loại khá có 147 đồng chí, trung bình có 114 đồng chí và 29 đảng viên kém. Đảng bộ tiếp tục củng cố tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. Ngoài công tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong Đảng được duy trì đều đặn, Huyện ủy còn tổ chức mở lớp huấn luyện cho cán bộ, đảng viên ở trường Đảng huyện nhằm nâng cao trình độ năng lực công tác của cán bộ, đảng viên. Đây là nhân tố chủ yếu để đưa Đảng bộ huyện trở thành Đảng bộ vững mạnh, đủ sức lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần đưa sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Năm 1968, để tạo thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển của địa phương, phù hợp với điều kiện thực tế, được sự nhất trí của Tỉnh, trung tâm Huyện lỵ đã được chuyển từ xã Xín Mần về vị trí xã Cốc Pài.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ I và Chỉ thị của Trung ương, Huyện ủy đã lãnh đạo tốt việc tiến hành cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã. Ủy ban hành chính các xã do Hội đồng nhân dân bầu ra hầu hết là những cán bộ trẻ, có thành phần cơ bản, biết chữ. Những cán bộ chủ chốt trong chính quyền là đảng viên. Chính quyền dân chủ nhân dân được kiện toàn, có phân công, phân nhiệm cụ thể, rõ ràng. Do đó, uy tín, hiệu lực của chính quyền ngày càng được phát huy. Cuối năm 1968, có 7 xã hoạt động đạt loại khá, 7 xã hoạt động đạt loại trung bình và 4 xã yếu kém. Do trình độ văn hóa của cán bộ, đảng viên còn thấp nên trong quá trình lãnh đạo và hoạt động còn nhiều hạn chế, thiếu chủ động, nhiều lúng túng.

Trong những năm 1965- 1968, phong trào thanh niên hoạt động tương đối mạnh, nhất là nhiệm vụ sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Thanh niên luôn đi đầu trong các phong trào làm thủy lợi, trồng cây gây rừng, làm giao thông, làm phân, nhập ngũ, củng cố hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, v.v.. Phong trào nhận làm việc khó của thanh niên đã lan rộng trong huyện. Phong trào “3 sẵn sàng” trong thanh niên phát triển mạnh. Qua các phong trào ấy, có nhiều thanh niên tốt được kết nạp vào Đoàn thanh niên và những thanh niên ưu tú được giới thiệu kết nạp Đảng.

Cùng với phong trào “3 sẵn sàng” của thanh niên, phong trào “3 đảm đang” của phụ nữ đã có những bước phát triển mới, nhất là trên mặt trận sản xuất nông nghiệp. Chị em luôn luôn đi đầu trong việc trồng, cấy, làm phân bón, thủy lợi, làm giao thông, tham gia quản lý hợp tác xã được quần chúng tín nhiệm. Toàn huyện có 14/15 chi hội phụ nữ phát động phong trào “3 đảm đang” với 2.445 chị em tham gia. Phụ nữ của huyện đã vận động nhân dân lập “hũ gạo” chống Mỹ, cứu nước. Chỉ tính riêng 3 xã Nấm Dẩn, Tả Nhìu, Ngán Chiên đã thu được 1.831 kg gạo nếp. Huyện có 594 chị em tham gia lực lượng dân quân. Phụ nữ của huyện luôn giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, vận động chồng con đi bộ đội.

Sau 4 năm chuyển hoạt động từ thời bình sang thời chiến, các phong trào “3 sẵn sàng” của thanh niên, “3 đảm đang” của phụ nữ ngày càng phát triển rầm rộ chưa từng có, với nhiều hình thức phong phú, sáng tạo hơn. Nhìn chung, phong trào quần chúng, nhất là phụ nữ và thanh niên, đã có bước phát triển rõ rệt. Thanh niên xứng đáng là cánh tay đắc lực của Đảng, phụ nữ là lực lượng tích cực tạo ra cơ sở vật chất cho xã hội và là lực lượng chủ yếu động viên chồng con ra mặt trận.

Mặt trận Tổ quốc từ huyện đến xã hoạt động tích cực. Đến cuối năm 1968, Mặt trận Tổ quốc cấp huyện đã tổ chức học tập chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, bài trừ mê tín dị đoan. Các cụ phụ lão tích cực tham gia trồng cây gây rừng, làm giao thông, vận động con cháu lên đường nhập ngũ. Nhân dân các dân tộc Xín Mần tin tưởng vào Đảng, đoàn kết, phấn khởi thực hiện mọi nhiệm vụ được giao.

Nhìn lại 4 năm (1965- 1968), mọi hoạt động của Đảng bộ và nhân dân huyện Xín Mần đã thực sự chuyển từ thời bình sang thời chiến. Khu sơ tán đã được ấn định. Mọi hoạt động về kinh tế, văn hóa, xã hội đã được chuyển biến phù hợp với tình hình mới, đạt được thành quả nhất định. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh, thiên tai và một số hạn chế nhất định, nên một số mặt công tác chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ mới. Thực hiện lời kêu gọi của Đảng và Bác Hồ, Đảng bộ Xín Mần luôn phấn đấu xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo nhân dân địa phương mình vững tin theo Đảng, ra sức xây dựng quê hương giàu đẹp, sẵn sàng đóng góp sức mình cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi.

II- TIẾP TỤC XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤT,
GÓP PHẦN ĐÁNH THẮNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI
LẦN THỨ HAI CỦA ĐẾ QUỐC MỸ
(1969 - 1972)

Thắng lợi của quân và dân hai miền Nam, Bắc buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang, ngừng ném bom bắn phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Miền Bắc tạm thời có hòa bình, có điều kiện thuận lợi để khôi phục và phát triển kinh tế, củng cố hậu phương vững mạnh, sẵn sàng chi viện cho miền Nam ruột thịt.

Nắm lấy thời cơ thuận lợi, miền Bắc nói chung, Hà Giang nói riêng, đã dốc toàn tâm, toàn lực xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc của tiền tuyến lớn miền Nam. Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Đảng bộ Xín Mần tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ II vào ngày 25-3-1969. Tới dự Đại hội có 76 đại biểu đại diện cho 496 đảng viên trong huyện. Đại hội đã nghiêm túc kiểm điểm các mặt công tác của nhiệm kỳ qua về những thắng lợi và tồn tại. Đại hội đã quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của Tỉnh ủy về việc đế quốc Mỹ xuống thang, ngừng ném bom miền Bắc. Phát huy thuận lợi, Đảng bộ Xín Mần ra sức lãnh đạo nhân dân xây dựng huyện nhà vững về kinh tế, mạnh về quốc phòng, sẵn sàng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Để đạt được mục tiêu đó, phương hướng hoạt động của Đại hội đại biểu lần thứ II, chỉ rõ: tập trung sức xây dựng kinh tế huyện vững mạnh, bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông vận tải và các ngành kinh tế khác; lấy trồng trọt, chăn nuôi, nghề rừng làm ngành chính của địa phương. Lấy sản xuất lương thực, hoa mầu và thực phẩm làm khâu chính, lấy lương thực làm khâu trọng tâm, nghề rừng làm giàu lâu dài để phát triển cây công nghiệp, tiến tới xóa bỏ kinh tế tự cấp, tự túc; xây dựng kinh tế phát triển toàn diện… tích cực phát triển nghề thủ công để phục vụ cho nông nghiệp, giao thông vận tải và nhu cầu sinh hoạt của nhân dân. Làm tốt công tác bảo vệ trật tự, an ninh và quan hệ biên giới tốt. Phấn đấu trở thành huyện biên giới xung yếu vững mạnh về mọi mặt…

Về công tác xây dựng Đảng, Đại hội nhấn mạnh, tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân lãnh đạo chính quyền các cấp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, do đó cơ sở đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, chặt chẽ về kỷ luật. Đại hội đề ra chỉ tiêu phấn đấu phát triển Đảng từ 1,49% lên 1,84% so với dân số trong huyện.

Ngày 29-3-1969, Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ huyện gồm 17 đồng chí ủy viên chính thức và 2 đồng chí ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hoàng Ngọc Lâm được bầu làm Bí thư.

Từ ngày 20 đến ngày 21-2-1971, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ III họp vòng I để thảo luận phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ tỉnh và huyện trong 3 năm tới. Qua thảo luận, Đại hội nhất trí thông qua và bổ sung vào bản Báo cáo phương hướng của huyện. Đảng bộ vòng 2 họp từ ngày 1 đến ngày 9-12-1971. Đại hội đã nhất trí thông qua Báo cáo tổng kết nhiệm kỳ khóa II (1969 - 1971) và tiến hành bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa III gồm 17 đồng chí ủy viên chính thức và 2 đồng chí ủy viên dự khuyết. Đồng chí Hoàng Ngọc Lâm được bầu làm Bí thư. Đại hội đề ra phương hướng cho nhiệm kỳ III và quyết định một số chỉ tiêu cụ thể như năm 1972 tổng sản lượng lương thực chính cả năm cần đạt 6.956.470 kg (trong đó lúa mùa trồng với diện tích 1.640 ha, năng suất đạt 45 kg/1kg giống; lúa xuân trồng với diện tích 162 ha, đạt 48 kg/1kg giống; lúa nương trồng với diện tích 228,6 ha, đạt 26 kg/1kg giống; ngô cả năm trồng với diện tích 2.860 ha, đạt 60 kg/1kg giống; hợp tác xã làm tốt khâu trọng tâm là lương thực, thực phẩm, phát huy ba thế mạnh nghề rừng, chăn nuôi, cây công nghiệp.

Như vậy, trong giai đoạn 1969 - 1972, Đảng bộ Xín Mần tiến hành 2 đại hội. Căn cứ vào những chủ trương của Trung ương Đảng, Nghị quyết của Tỉnh ủy, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mà mỗi đại hội đều xác định những nhiệm vụ cụ thể. Nhưng nhìn chung, Đảng bộ đã xác định phương hướng chính là đẩy mạnh và phát triển kinh tế, xác định rõ nhiệm vụ chính của địa phương là nông nghiệp, cây công nghiệp, chăn nuôi, nghề rừng. Đảng bộ xác định rõ cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng nông, lâm nghiệp là chính. Đồng thời coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng vững mạnh các đoàn thể quần chúng, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và chi viện cho miền Nam.

Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, để phấn đấu đạt cho được mức bình quân 1 nhân khẩu trong toàn huyện là 21kg/tháng mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ II thông qua, Huyện ủy đã xác định phải củng cố hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, tổ chức tốt 3 quản, 3 khoán trong hợp tác xã nông nghiệp, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất nông nghiệp. Ngay từ đầu năm 1969, Huyện ủy đã chỉ đạo sát công tác sản xuất nông nghiệp, theo dõi sát các khâu làm đất, chọn giống, gieo mạ, làm phân, các nông cụ cần thiết, thuốc trừ sâu… ở các hợp tác xã. Huyện đã bảo đảm được 95% diện tích đủ nước làm vụ mùa.

Để thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra trong Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ II, ngày 31-3-1969, Huyện ủy mở chiến dịch ngắn ngày “Đẩy mạnh sản xuất và chỉ đạo bầu cử”. Do tình hình sản xuất nông nghiệp gặp khó khăn, hạn hán kéo dài trên 5 tháng, không đủ nước để cấy, diện tích trồng ngô, đỗ tương chưa đạt chỉ tiêu, một số ruộng nương chưa cày ải xong, vụ xuân gặp khó khăn, Huyện ủy mở chiến dịch đẩy mạnh sản xuất từ ngày 1 đến ngày 30-4-1969, với một số nhiệm vụ cụ thể là:

- Vận động trồng các loại hoa màu ngắn hạn như: rau, bí… để chống đói, trước mắt bảo vệ, chăm sóc ngô, đậu đã trồng, đồng thời vận động nhân dân tiết kiệm lương thực: ăn độn, không dùng ngô, sắn, gạo để nấu rượu…

- Chuẩn bị cho việc làm mùa: đẩy mạnh làm phân xanh, thu dọn phân, chuẩn bị ruộng, mạ, sửa chữa mương, phai, cày ải nương, chuẩn bị mọi phương tiện,… để khi có mưa sản xuất được ngay.

- Tổ chức và quản lý tốt lao động, có kế hoạch bố trí và phân công lao động vào sản xuất cho hợp lý, phát huy khả năng của quần chúng.

Đảng bộ và chính quyền tổ chức hội nghị các bí thư chi bộ, đề ra một số biện pháp chỉ đạo, phân công các cấp ủy viên và cán bộ xuống các xã để chỉ đạo việc thực hiện, nên kết quả là có một số hợp tác xã đạt năng suất như Nghị quyết Đại hội đề ra. Phong trào hợp tác hóa vẫn được giữ vững, có chiều hướng vươn lên. Thực hiện Thông tư 238 của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết của Tỉnh ủy Hà Giang về việc đưa Điều lệ hợp tác xã bậc cao vào hợp tác xã nông nghiệp, Ban Thường vụ Huyện ủy Xín Mần đã quyết định thí điểm 2 đợt đưa Điều lệ vào 4 hợp tác xã của xã Tả Nhìu, Cốc Rế. Qua thực tế ở hợp tác xã đó, nhiều kinh nghiệm quý và thiết thực được rút ra đã giúp Ban Thường vụ Huyện ủy có kế hoạch chỉ đạo triển khai rộng trong toàn huyện. Ngày 13-10-1970, Ban Chấp hành Đảng bộ đã ra Nghị quyết về việc “mở cuộc vận động lãnh đạo, chỉ đạo, đưa Điều lệ mới vào hợp tác xã nông nghiệp” trong toàn huyện. Đây là một cuộc vận động chính trị lớn tiếp sau cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật. Nó góp phần củng cố hợp tác xã nông nghiệp, nâng cao trình độ quản lý kinh tế cho cán bộ, phát huy vai trò làm chủ tập thể của xã viên, tạo điều kiện thuận lợi để đưa sản xuất nông nghiệp ở Xín Mần từ sản xuất nhỏ tiến dần lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Năm 1969, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp ở Xín Mần được củng cố và phát triển, toàn huyện đã có 128 hợp tác xã. Đến năm 1971- 1972 có 131 hợp tác xã với 4.604 hộ, trong đó có 64 hợp tác xã cấp cao, có 2 hợp tác xã tiên tiến (hợp tác xã Cốc Đông xã Cốc Rế, hợp tác xã Lung Mẩu xã Tả Nhìu). Đạt loại khá từng mặt có 40 hợp tác xã, đạt loại trung bình có 55 hợp tác xã, loại kém có 31 hợp tác xã. Toàn huyện có 16/131 hợp tác xã ở xã Cốc Rế, Tả Nhìu hoàn thành đưa Điều lệ vào hợp tác xã nông nghiệp.

Qua các cuộc vận động đưa Điều lệ hợp tác xã vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cuối năm 1970, “Nâng cao chất lượng đảng viên”, “công tác định canh, định cư ở vùng cao”, v.v. công tác quản lý hợp tác xã của cán bộ, đảng viên có nhiều tiến bộ. Một số hợp tác xã đã thực hiện tốt 4 yêu cầu theo Chỉ thị 15 của Tỉnh ủy, xây dựng được kế hoạch phát triển kinh tế của từng hợp tác xã, xây dựng được kế hoạch vụ, năm, kế hoạch định mức lao động và khoán, quản lý tốt lao động, đề ra một số chỉ tiêu và biện pháp kỹ thuật, công tác thu hoạch và phân phối sản phẩm nhiều tiến bộ, ổn định nghĩa vụ lương thực, cán bộ hợp tác xã và xã viên đoàn kết nhất trí… Tuy vậy, năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế của cán bộ lãnh đạo hợp tác xã chưa cao, nhiều người không biết chữ nên chưa có kinh nghiệm trong sản xuất và áp dụng khoa học kỹ thuật, mang tư tưởng hữu khuynh nặng…

Cơ sở vật chất của các hợp tác xã từng bước được tăng cường, trong đó công tác thủy lợi được chỉ đạo rất chặt chẽ, phong trào làm thủy lợi giữa các xã, các hợp tác xã phát triển mạnh, tinh thần tự lực cánh sinh trong công tác làm thủy lợi ở các hợp tác xã được phát huy mạnh mẽ. Năm 1969, huyện tập trung chỉ đạo làm thủy lợi và đã hoàn thành công trình trung thủy nông Thèn Phàng, tiểu thủy nông ở Bản Máy, Cốc Rế, Nấm Dẩn, Nàn Ma, Bản Pắng; đáp ứng được 95% diện tích đủ nước làm mùa. Năm 1971, Xín Mần xảy ra lũ lụt đe dọa liên tiếp trong tháng 7, 8. Mưa kéo dài đã phá hoại nhiều công trình thủy lợi ở địa phương. Nhưng được sự giúp đỡ của tỉnh, sự cố gắng của các cấp ủy và chính quyền, nhân dân trong huyện đã đẩy mạnh công tác thủy lợi với việc sửa chữa các mương, phai… Sau 2 năm 1970 - 1971, huyện tu sửa các công trình thủy nông hết 41.574 công, bình quân mỗi lao động đạt 2,5 công; đầu tư làm thủy lợi là 10.500 đồng, 1.200 kg gạo, 2.400 kg xi măng, 3.112 phát mìn. Ngoài ra, huyện còn làm kiểu nương bậc thang để chống hiện tượng xói mòn. Đến cuối năm 1972, công tác thủy lợi ở Xín Mần về cơ bản được giải quyết, góp phần chủ động tưới tiêu cho hàng nghìn hécta lúa 2 vụ, một phần tưới cho hoa màu, cây công nghiệp và chăn nuôi. Cơ sở vật chất của hợp tác xã được tăng cường. Hầu như hợp tác xã nào cũng có mương, phai, hệ thống tưới tiêu và xây dựng được nhà kho và bể ngâm giống. Năm 1971, các hợp tác xã trong huyện đã mạnh dạn đưa giống mới vào đồng ruộng như Chân châu lùn, Lục tài liêu…, phong trào làm phân được triển khai rộng khắp. Năm 1969 - 1970, phân bón đạt 3 tấn/ha, so với kế hoạch đạt 50%. Năm 1970, bón phân cho toàn bộ diện tích đạt: phân chuồng 97.178 kg, phân đạm 20.871 kg, phân lân 14.285 kg. Trung bình lúa mùa bón phân đạt 59 kg/1 kg giống, lúa Nam Ninh bón phân đạt 30,8 kg/1 kg giống, ngô bón phân đạt 74,7 kg/1kg giống, đậu tương bón phân đạt 60 kg/1 kg giống. Năm 1971, qua 2 đợt mở chiến dịch vận động, sản xuất phân bón có tiến bộ hơn, trung bình bón 84 kg phân chuồng, 0,52 kg phân đạm cho 1 kg giống. Riêng 5 xã bón trung bình 100 kg/1kg giống. Riêng 5 xã bón trung bình 100 kg/1kg giống như các xã: Ngán Chiên, Cốc Rế, Tả Nhìu, Bản Phùng, Bản Máy. Khâu làm đất đều được cày ải từ 80 đến 95% diện tích ruộng. Khâu làm cỏ được làm từ một đến hai lần trên toàn bộ diện tích. Phong trào thi đua lao động sản xuất ở các hợp tác xã diễn ra sôi nổi, đáng khích lệ và đóng góp nghĩa vụ đối với Nhà nước, nâng cao đời sống nhân dân.

Việc củng cố hợp tác xã, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, động viên phong trào thi đua lao động sản xuất đã quyết định sự phát triển của sản xuất nông nghiệp của huyện. Năm 1970, huyện thực hiện chỉ tiêu kế hoạch nông nghiệp có nhiều chuyển biến về diện tích so với kế hoạch: lúa mùa tăng 2,6%, lúa nương tăng 12,1%, ngô cả năm tăng 8,40%. Đặc biệt ngô ruộng tăng 50%, sắn tăng 1,70%, dong riềng tăng 13,30%, tam giác mạch tăng 2%. Tổng sản lượng lương thực vượt mức tỉnh giao là 210 tấn, chưa kể hoa màu quy ra thóc (về hoa màu đều đạt được chỉ tiêu kể cả diện tích và sản lượng). Đậu tương đạt 7,9 kg/1kg giống, diện tích thực hiện 404 ha. Năm 1971, huyện đã xác định được phương hướng sản xuất cây trồng là lúa, ngô, đậu tương, chè. Diện tích lúa mùa thực hiện 1.669,7 ha so với kế hoạch đạt 101,4%. Năng suất lúa tăng lên từ 41 kg lên 56 kg/1kg giống, lúa nương tăng từ 20 kg lên 33 kg/1kg giống. Ngô (cả ngô ruộng và ngô nương) thực hiện được 2.998,5 ha so với kế hoạch đặt ra đạt 110%. Đậu tương thực hiện được 305,4 ha (năm 1969), 478 ha (năm 1971). Năng suất tăng từ 3,55 tạ/ha lên 3,84 tạ/ha. Trong toàn huyện có 4 xã đạt năng suất 21,6 tạ/ha (Bản Díu, Thèn Phàng, Cốc Rế, Tả Nhìu), 9 xã đạt năng suất từ 20,73 tạ/ha đến 21,36 tạ/ha, 5 xã đạt năng suất 20 tạ/ha (Xín Mần, Chí Cà, Pà Vầy Sủ, Nàn Ma, Cốc Pài). Năm 1972, huyện đẩy mạnh việc thâm canh tăng vụ, trồng xuống ruộng chủ yếu các loại cây: lúa, ngô, đậu tương, tam giác mạch, chuyển một số nương sang trồng chè. Tổng sản lượng lương thực cả năm hụt 69 tấn so với Nghị quyết Đại hội III đề ra là 6.956.470 kg. Song, nhìn chung năm 1969- 1972, sản lượng lương thực đã có bước phát triển, đời sống của nhân dân các dân tộc trong huyện được nâng lên và hoàn thành tốt nghĩa vụ với Nhà nước.

Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ chú trọng đến công tác vận động đồng bào định canh, định cư, ổn định cuộc sống để sản xuất, tránh tình trạng phá rừng làm nương bừa bãi. Năm 1972, qua cuộc vận động này, đồng bào đã khai phá ruộng bậc thang 16,6 ha, nương bậc thang 48,82 ha một cách có quy hoạch, điển hình đồng bào xã Nàn Ma làm được 32,6 ha ruộng nương bậc thang và xây dựng cuộc sống mới.

Bên cạnh những tiến bộ đã đạt được, một số hợp tác xã ở Xín Mần còn có những mặt yếu kém, nên nạn đói vẫn còn xảy ra ở một số nơi vùng cao đồng bào Mông sinh sống. Một số xã khoán sai, phân phối sản phẩm chưa đúng quy định đã ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Nhiều hợp tác xã mới chỉ coi trọng quản lý cây lúa, cây màu nhưng chưa chú trọng đến cây công nghiệp, chăn nuôi, nghề rừng. Huyện Xín Mần là huyện miền núi, nhưng chưa phát huy được thế mạnh là nghề rừng và chăn nuôi, rừng bị tàn phá nhiều, chăn nuôi phát triển quá chậm. Huyện chưa đi sâu vào chuyên môn hóa ngành nghề, cây, con…, cơ sở vật chất kỹ thuật của các hợp tác xã quá thô sơ, nghèo nàn, không được bảo vệ, lao động thủ công là chủ yếu, quản lý lao động lỏng lẻo bình quân ngày công lao động trong toàn huyện mới đạt 110 ngày/năm, đội ngũ cán bộ hợp tác xã còn yếu, trình độ tổ chức, quản lý còn quá thấp. Đây là những hạn chế của các hợp tác xã nông nghiệp trong những năm 1969 - 1972.

Lĩnh vực chăn nuôi của huyện cũng được khôi phục và phát triển nhưng ở mức độ chậm. Thực hiện Nghị quyết 19 và Nghị quyết 21 của Đảng về việc phát triển chăn nuôi, đưa chăn nuôi trở thành ngành chính, năm 1969- 1972, Xín Mần coi chăn nuôi là một ngành trọng tâm của huyện, đã thành lập hợp tác xã chăn nuôi lợn và gia súc. Các hợp tác xã đã tiến hành xây dựng chuồng trại, nuôi lợn nái, lợn thịt và phát triển chăn nuôi trâu, bò, ngựa. Ngoài việc đầu tư giống, vốn, kỹ thuật, hợp tác xã chăn nuôi còn tăng cường đào tạo cán bộ kỹ thuật. Các hộ gia đình cũng tích cực chăn nuôi gia súc (trâu, bò, ngựa, lợn, dê), gia cầm (gà, vịt). Riêng năm 1970, huyện đã bán lợn hơi cho Nhà nước đạt 34,6%, trâu hơi đạt 73,13%, gà, vịt 798 kg. Chăn nuôi đã góp phần bảo đảm sức kéo, nguồn thực phẩm và phân bón cho huyện. Song, năm 1971, đàn gia súc, gia cầm của huyện giảm sút do bị chết rét vì chưa có biện pháp phòng ngừa, do sử dụng quá lãng phí trong ma chay, cưới xin; mặt khác, các cấp ủy, chính quyền, ban quản trị các hợp tác xã chưa nhận thức được đầy đủ điều kiện thế mạnh của địa phương về công tác chăn nuôi, nên chưa có kế hoạch chặt chẽ, cụ thể để thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện.

Ngành thủ công nghiệp, trong những năm 1969 - 1972, cũng đã có bước phát triển. Huyện thành lập 2 hợp tác xã thủ công nghiệp. Nhiều mặt hàng sản xuất tại địa phương như: dao, cuốc, lưỡi cày, búa, móng ngựa, kiềng, đồ bằng gỗ đã phục vụ cho đời sống và sinh hoạt, nhu cầu sản xuất của nhân dân trong huyện, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của địa phương, giải quyết được công ăn việc làm cho một số người. Tuy vậy, công tác quản lý lao động và tổ chức sản xuất rất khó khăn, phức tạp. Nguyên vật liệu bị thiếu thốn, sản xuất giảm sút, có thời gian xã viên không đủ việc làm. Để khắc phục tình trạng này, Đảng bộ đã chỉ đạo việc nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường ra ngoài địa phương. Đến năm 1972, thu nhập của xã viên tăng, đời sống ổn định và từng bước được cải thiện. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp từng bước được phục hồi và phát triển.

 Về lâm nghiệp, Đảng bộ chỉ đạo việc trồng cây, khoanh nuôi tu bổ, cải tạo, bảo vệ rừng, đồng thời chú trọng đến việc khai thác có kế hoạch để góp phần phục vụ yêu cầu sản xuất, chiến đấu và xây dựng. Đến năm 1971, huyện trồng được 115,2 ha, tu bổ 21 ha, khoanh nuôi rừng 550 ha, đạt 76,8% kế hoạch, có 49 vườn ươm cây, với diện tích 5.700 m2. Năm 1972, công tác bảo vệ rừng, khoanh nuôi, tu bổ rừng có nhiều chuyển biến tốt, nhất là công tác trồng rừng, bảo vệ rừng đã trở thành phong trào của quần chúng. Trong những năm 1969-1972, Xín Mần chưa có quy hoạch vùng cụ thể nên một số hợp tác xã và đồng bào du canh, du cư vẫn tiếp tục phá rừng, làm nương. Trên địa bàn huyện còn nhiều đất trống, đồi núi trọng chưa được sử dụng. Năm 1972, Đảng bộ đề ra mục tiêu từ năm 1972 đến năm 1980, trồng 4.000 ha rừng có phân vùng. Toàn huyện có 72.562 ha đất đồi hoang núi trọc, chiếm 35% diện tích. Đất đồi hoang huyện sẽ trồng cây rải rác trên diện tích 184 ha; đất có tre, vầu 220 ha; núi đá có cây 1.092 ha. Diện tích rừng giữ lại khoanh nuôi 16.007 ha. Từ năm 1972 đến đầu năm 1973, huyện trồng được 24,4 ha rừng và 11 vườn ươm cây.

Trong những năm 1969- 1972, Xín Mần đã đạt được nhiều thành tích trong công tác làm đường giao thông. Sau một thời gian lao động cật lực, ngày 23-4-1972, nhân dân các dân tộc hai huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần phấn khởi làm lễ khai thông con đường ô tô Hoàng Su Phì đến đầu cầu Cốc Pài. Để làm con đường này, cán bộ, công nhân, dân công của hai huyện đã bỏ ra 884.000 ngày công, đào đắp 336.000 m3 đất, 27.000 m3 đá; xây 401 cống ngầm, xếp 11.000 m3 đá làm kè và làm 1 cái cầu dài 16 mét. Riêng vách đá km 30+500 khởi công ngày 23-10-1970 và hoàn thành ngày 19-5-1971 do công nhân Xín Mần thi công phá 14.730 m3 đá. Đường giao thông được mở mang, thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa, đời sống của đồng bào các dân tộc trong huyện được cải thiện hơn.

Công tác xây dựng Đảng đã được kết hợp với việc vận động quần chúng thực hiện dân chủ, đẩy mạnh sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt. Đảng bộ đã xác định rõ vai trò quan trọng của chi bộ, Đảng bộ cơ sở. Do vậy, vấn đề nâng cao chất lượng đảng viên, củng cố tổ chức cơ sở đảng được tiến hành thường xuyên, nghiêm túc, luôn gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Năm 1969, toàn Đảng bộ có 545 đảng viên sinh hoạt ở 33 cơ sở đảng. Do đa số đảng viên trình độ văn hóa và lý luận còn thấp, Huyện ủy đã quyết định cử một số đồng chí huyện ủy viên, cán bộ chủ chốt của xã và hợp tác xã đi học văn hóa dài hạn. Đội ngũ cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng bộ về cơ bản là tốt, rất nhiệt tình cách mạng, luôn có ý thức phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, một số ít cán bộ, đảng viên vẫn còn có nhận thức sai lệch, chưa gương mẫu trong lao động sản xuất, tự tư tự lợi, v.v.. Đảng bộ kiên quyết xử lý đảng viên thoái hóa, biến chất, góp phần giáo dục, nâng cao chất lượng đảng viên. Năm 1969, trong toàn Đảng bộ số người bị khai trừ ra khỏi Đảng 2, xóa tên 3, cảnh cáo 3, cách chức 2, lưu đảng 6. Năm 1972, 513 đảng viên của toàn Đảng bộ sinh hoạt trong 30 cơ sở đảng đã xếp loại đảng viên 4 tốt như sau: phấn đấu tốt xuất sắc 39; phấn đấu tốt 59; chưa tốt 137, kém 115, quá kém 29. Chi bộ phấn đấu tốt 4 chi bộ, chi bộ phấn đấu chưa tốt 12 chi bộ, chi bộ phấn đấu kém 11 chi bộ, chi bộ quá kém 3 chi bộ. Đảng bộ đã kiên quyết xử lý những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng và đảng viên yếu kém qua nhiều lần giáo dục mà vẫn không tiến bộ. Công tác phát triển đảng viên mới được tiến hành thận trọng, chặt chẽ, bảo đảm chất lượng. Năm 1970 - 1971, 12 quần chúng xuất sắc được kết nạp vào Đảng, trong đó có 7 đảng viên nông thôn, 5 đảng viên ở khối cơ quan. Năm 1970, Đảng ta chủ trương tiến hành hai đợt kết nạp đảng viên Lớp Hồ Chí Minh, Đảng bộ kết nạp được 7 người trong đợt 19-5. Năm 1972 và đầu năm 1973, phát triển được 12 đảng viên mới. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng của Đảng bộ chưa được đều, còn chậm, vẫn còn chi bộ xã không kết nạp được đảng viên nào. Các chi bộ cần thường xuyên chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao quan điểm, lập trường giai cấp cho đảng viên và quần chúng.

Để nâng cao chất lượng đảng viên và tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức cơ sở đảng, Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ đạo điểm ở hai cơ sở là chi bộ Tả Nhìu và chi bộ Phòng Giáo dục về công tác kiểm tra đảng trong sinh hoạt đảng và chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Các nội dung kiểm tra về sinh hoạt đảng, vai trò đảng viên, đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng và chính sách… được tiến hành nghiêm túc và đạt kết quả tốt, phát huy tác dụng, phục vụ nhiệm vụ chính trị xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Qua làm điểm ở hai cơ sở đảng, công tác kiểm tra đảng được tiến hành mở rộng trong toàn Đảng bộ.

Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Xín Mần biến đau thương thành hành động cách mạng, Huyện ủy đã phát động đợt sinh hoạt chính trị trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện. Nội dung là học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, đảng viên; tổ chức tốt việc đưa Điều lệ vào hợp tác xã nông nghiệp; tạo khí thế mới phấn đấu hoàn thành kế hoạch nhà nước năm 1969. Qua đợt sinh hoạt đã động viên tư tưởng, ý chí quyết tâm vượt mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đảng bộ Đại hội đã đề ra.

Tháng 8-1970, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Xín Mần đã quán triệt Nghị quyết 194, 195, 197 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng về cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên Lớp Hồ Chí Minh; về cuộc vận động tăng cường chế độ làm chủ tập thể ở nông thôn. Gắn chặt yêu cầu của cuộc vận động chính trị do Tỉnh ủy đề ra với việc tiến hành những nhiệm vụ trung tâm trước mắt là đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, đưa Điều lệ vào hợp tác xã nông nghiệp một cách rộng khắp… Qua việc nghiên cứu quán triệt các Nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy làm cho đảng viên nhận thức sâu sắc về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, thực hiện tốt 7 yêu cầu về nâng cao chất lượng đảng viên.

Trong khi thực hiện cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên, tháng 3-1971, đã diễn ra Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ V của tỉnh Hà Giang và cuối năm 1971, Đảng bộ Xín Mần tiến hành Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ III. Đảng bộ nghiêm túc kiểm điểm nêu bật ưu, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên trong nhiệm kỳ vừa qua, chấn chỉnh, củng cố lại các tổ chức cơ sở đảng. Đồng thời thông qua phê bình, tự phê bình và sự góp ý xây dựng Đảng của quần chúng, nhiều tổ chức cơ sở đảng đã phát huy được tính tích cực, khắc phục những nhược điểm, thiếu sót, gây được lòng tin trong nhân dân, vai trò lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ được nâng cao. Năm 1972, các chi bộ: Thu Tà, Tả Nhìu, Phòng Giáo dục và chi bộ cơ quan, Quân sự huyện là những cơ sở đảng phấn đấu đạt kết quả tốt, có nhiều đảng viên gương mẫu, đi đầu trong phong trào quần chúng, lãnh đạo quần chúng thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ; 12 chi bộ phấn đấu chưa tốt: nông thôn có 5 chi bộ (Nấm Dẩn, Chế Là, Cốc Rế, Ngán Chiên, Bản Pắng), cơ quan có 7 chi bộ (Ngân hàng, Tài Chính, Văn phòng Huyện ủy, Nông nghiệp, Kế hoạch, Dân chính, Công an, Tòa án – Kiểm sát); 11 chi bộ phấn đấu kém trong đó nông thôn có 8 chi bộ, cơ quan có 3 chi bộ; có 3 chi bộ quá kém.

Năm 1972, toàn huyện có 513 đảng viên thì có 39 đồng chí xếp loại phấn đấu tốt xuất sắc, 59 đồng chí xếp loại phấn đấu tốt, 137 đồng chí xếp loại chưa tốt, 115 đồng chí xếp loại kém, 29 đồng chí xếp loại quá kém. Đồng thời, để làm trong sạch đội ngũ đảng viên, giữ vững niềm tin của quần chúng, Đảng bộ kiên quyết xử lý kỷ luật những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Cuộc vận động này được gắn chặt với công tác sản xuất và chi viện cho chiến trường miền Nam. Cuộc vận động này được gắn chặt với công tác sản xuất và chi viện cho chiến trường miền Nam. Nó góp phần vào việc thúc đẩy đảng viên rèn luyện tư tưởng, chính trị và năng lực công tác, gắn bó với quần chúng và cùng quần chúng thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị được giao trong giai đoạn 1969- 1972.

Trong khi miền Bắc tạm thời có hòa bình, các cấp ủy đảng và chính quyền từ huyện đến cơ sở luôn quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Thường xuyên giáo dục, tổ chức học tập cho cán bộ, đảng viên và nhân dân quán triệt đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng, nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ tiếp tục chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Xín Mần lần thứ II về bảo vệ trị an và biên giới, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và Nghị quyết của Ban Thường vụ Huyện ủy ngày 1-3-1969 về công tác quân sự năm 1969- 1970, năm 1969, hàng ngàn đảng viên, đoàn viên trong huyện tham gia vào lực lượng vũ trang của huyện. Huyện đội đã tổ chức huấn luyện quân sự và chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ, huấn luyện về tính năng của các loại vũ khí, cách sử dụng các vũ khí và chiến thuật chiến đấu, xây dựng các phương án tác chiến, các kế hoạch phòng thủ địa phương… Các cơ sở xã thường xuyên kiểm tra đôn đốc việc thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu của các cán bộ, chiến sĩ, chỉ đạo sát sao việc bảo vệ biên giới.

Để nâng cao sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang toàn huyện, ngày 1-3-1969, Ban Thường vụ Huyện ủy ra Nghị quyết về công tác quân sự trong năm 1969- 1970. Nghị quyết đã nhận định về khả năng xảy ra chiến tranh, có thể:

1- Chúng nhảy dù xuống những xã biên giới và vùng xung yếu.

2- Bọn biệt kích, đặc vụ, gián điệp ở ngoài xâm nhập vào huyện, ngấm ngầm tổ chức gây cơ sở, chống phá ta.

3- Những phần tử xấu, phản cách mạng bất mãn, ngóc đầu dậy, gây căng thẳng trị an xã hội.

Nghị quyết đã nêu lên nhiệm vụ cụ thể là: phải củng cố Ban chỉ huy xã đội, công an bảo đảm cho đủ số lượng và chất lượng; xã đội trưởng 100%, cấp phó 50%, cán bộ trung đội 30%, tiểu đội 10% là đảng viên. Mỗi xã phải có từ 45 đến 50% đảng viên, 60% đoàn viên tham gia dân quân tự vệ, công an.

Đối với công an: cấp trưởng 100%, cấp phó 50%, công an viên 30% là đảng viên, 40% là đoàn viên. Cần sa thải những người tha hóa, biến chất, tham ô, hủ hóa, chây lười, bất mãn ra khỏi lực lượng vũ trang, bán vũ trang và công an.

Nhiệm vụ trị an tác chiến năm 1970 là bảo đảm an toàn biên giới và nội địa, kiên quyết ngăn chặn mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch. Kịp thời đối phó với mọi tình huống xảy ra trên địa bàn.

Khu vực biên giới: phải đề phòng gián điệp, đặc vụ và những phần tử phản cách mạng thâm nhập. Những tổ chức phản động ngấm ngầm hoạt động nối lại quan hệ với nhau giữa biên giới hai nước. Quản lý chặt chẽ các đối tượng chính trị, ngăn ngừa hiện tượng vượt biên trái phép, buôn lậu trâu, bò, thuốc phiện. Bảo đảm quy chế biên giới, giữ vững chủ quyền quốc gia, giữ vững tình đoàn kết quốc tế vô sản. Quản lý chặt chẽ hộ tịch…

Khu vực xung yếu: đề phòng biệt kích nhảy dù xuống địa bàn, gián điệp, biệt kích thâm nhập từ bên ngoài vào. Quản lý chặt chẽ các đối tượng, không để chúng có các hành động đi lại có điều kiện bắt mối hoặc có những hành vi đe dọa chống đối, kiểm tra chặt chẽ những kẻ lạ mặt.

Vùng nội địa: Quản lý theo các đối tượng chính trị, giáo dục xử lý những vụ vi phạm trị an xã hội, phát giác đề phòng các trường hợp tham ô của tập thể, vi phạm đường lối, chính sách. Xây dựng mạng lưới trinh sát, công an thật nhạy bén đều khắp các cơ sở và các trung đội cơ động xã Bản Máy, Nấm Dẩn, Bản Ngò. Củng cố các trung đội cơ động đã có ở Chí Cà, Nàn Ma. Xây dựng làng xã chiến đấu ở xã Tả Nhìu, xây dựng 2 tiểu đội cối 60 ly ở Cốc Pài, Tả Nhìu.

Động viên và tổ chức thực hiện tốt nhất yêu cầu chi viện tiền tuyến, góp phần lớn nhất của huyện cả về sức người, sức của trong bất kỳ tình huống nào. Xây dựng đội dự bị sẵn sàng lên đường nhập ngũ. Chấp hành tốt chính sách hậu phương của Đảng và Chính phủ.

Công tác thi đua và sản xuất: lực lượng vũ trang và bán vũ trang luôn đi đầu, xung kích trong sản xuất, vì gồm những người lao động chính trong hợp tác xã và trụ cột của gia đình. Ban quản trị hợp tác xã nông nghiệp và đơn vị dân quân phải phối hợp tổ chức, bố trí lực lượng vào sản xuất và chiến đấu tốt.

Các Đảng bộ, chi bộ cơ sở, các cơ quan ban ngành trong huyện phải có phương hướng của ngành mình chỉ đạo ngành dọc tổ chức thực hiện nhiệm vụ quân sự của huyện nhà.

Xín Mần đã thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 của Trung ương Đảng là tăng cường công tác quản lý biên giới và kiên trì đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế quốc dân. Xuất phát từ đặc điểm biên giới, các phần tử xấu thường lợi dụng hoạt động, đáng chú ý nhất là bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch, một số đào lạc binh… bọn chúng gặp nhau bàn bạc tung tin xấu gây hoang mang trong nhân dân, làm cho dân hoài nghi vào đường lối chống Mỹ, cứu nước. Một số nơi trong huyện, do ta chưa giáo dục kịp thời, một số kẻ xấu đã vi phạm việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ, buôn lậu, vượt biên trái phép, nhất là ảnh hưởng đến các đợt tuyển quân, đến việc củng cố hợp tác xã.

Dọc biên giới, những phần tử xấu của Trung Quốc cũng xâm nhập nội địa của ta để tránh sự cải tạo và thăm dò đường lối cách mạng của ta, tranh thủ cơ hội nắm cán bộ ta. Một số cán bộ, nhân dân ta do mất cảnh giác bị chúng lợi dụng. Song, ta đã chủ động phát hiện, đặt kế hoạch theo dõi chặt chẽ, ngăn chặn kịp thời, thực hiện tốt công tác bảo vệ, có cách xử lý đúng đắn với bọn này. Do đó, nhân dân càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, nâng cao cảnh giác, do vậy, vẫn bảo đảm an ninh trong toàn huyện. Thực hiện tốt phong trào bảo vệ trị an, xây dựng các xã vững mạnh đã được huyện thường xuyên chú trọng. Phong trào bảo mật phòng gian, xây dựng đơn vị an toàn trong cơ quan, nông lâm trường… cũng được củng cố, phát triển có chất lượng. Bên cạnh đó, một số xã còn yếu về ý thức cảnh giác, ý thức tổ chức kỷ luật còn lỏng lẻo… cần được khắc phục.

Trong những năm 1969 - 1972, các cấp, các ngành cùng với nhân dân các dân tộc trong huyện đã làm tốt công tác tuyển quân, động viên thanh niên lên đường nhập ngũ và đi chiến đấu giải phóng miền Nam. Năm 1969 - 1970, các xã Ngán Chiên, Thèn Phàng, Bản Díu, Thu Tà đã vượt mức chỉ tiêu giao quân. Đặc biệt đã làm tốt công tác tư tưởng cho số thanh niên bỏ ngũ trở lại tiếp tục đi chiến đấu. Công tác hậu phương quân đội cũng được tiến hành thường xuyên nên đã động viên rất lớn đối với nhân dân và thanh niên. Các thương binh, gia đình liệt sĩ được giải quyết các chính sách về vật chất và tinh thần chu đáo. Các gia đình bộ đội đều được điều hòa lương thực, chiếu cố công ăn việc làm. Chính quyền, đoàn thể ở các xã thường xuyên quan tâm, giúp đỡ các gia đình chính sách để họ có mức sống trung bình so với trong huyện. Phong trào thi đua tòng quân thật sự sâu rộng và rầm rộ. Nhân dân các dân tộc Xín Mần đã lần lượt tiễn đưa con em mình lên đường đánh Mỹ, góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Công tác văn hóa, thông tin, y tế đã có những bước phát triển mới. Năm học 1970 - 1971, tổng số các ngành học của huyện có 252 lớp với 3.467 học sinh, chiếm 12,43% dân số toàn huyện. So với năm 1968, số học sinh đến trường đã tăng, trường cấp I và trường thanh niên dân tộc đã đạt được kế hoạch đề ra và có thêm 2 trường cấp II ở Bản Díu, Cốc Rế. Công tác bổ túc văn hóa chưa được đẩy mạnh thường xuyên, số trẻ em từ 6 tuổi đến 12 tuổi chưa được đến trường còn tới 3.196 em. Đến năm 1972, công tác giáo dục đã có những tiến bộ, trường cấp I Bản Díu đạt được danh hiệu trường tiên tiến chống Mỹ, cứu nước, tổ Lao động xã hội chủ nghĩa. Giáo viên tăng nhanh, học sinh đến trường đông hơn. Song cũng còn tồn tại những khuyết điểm, nhược điểm:

- Trường, lớp sơ sài, trống trải, dột nát, hư hỏng.

- Chất lượng giảng dạy của giáo viên còn non yếu, không đạt yêu cầu của chương trình.

Trước tình hình đó, ngày 23-4-1972, Ban Chấp hành Đảng bộ ra Quyết định về “Công tác giáo dục”, đề ra một số biện pháp cấp bách.

1. Tổ chức sinh hoạt chính trị trong nhân dân, trong ngành giáo dục, động viên tinh thần cách mạng của nhân dân, cán bộ trong và ngoài ngành giáo dục tham gia xây dựng phong trào giáo dục một cách chủ động, tích cực, sáng tạo. Nghiêm túc kiểm điểm nguyên nhân phong trào lên xuống, phân tích rõ những thuận lợi, khó khăn khách quan, chủ quan để tìm ra biện pháp khắc phục, đề ra được những việc làm cụ thể trước mắt, đưa phong trào tiến lên.

2. Củng cố Ban giáo dục xã, xây dựng cho được đội ngũ giáo viên dân lập ở xã… và phối hợp với Ban nông lâm nghiệp huyện quy định chế độ đãi ngộ cho giáo viên.

3. Xét cấp học bổng cho những học sinh nghèo và ở xa trường học.

Do có những cố gắng trong công tác giáo dục, chi bộ Phòng giáo dục đã đạt loại chi bộ phấn đấu tốt của huyện.

Về công tác thông tin văn hóa văn nghệ, đã thường xuyên truyền tin tức trong nước, thế giới phục vụ đồng bào các dân tộc. Những ngày họp chợ, đài truyền thanh phát bằng tiếng địa phương. Đội chiếu bóng của huyện thường xuyên phục vụ lưu động trong huyện. Năm 1970, đội đã phục vụ 118 tối cho 33.860 lượt người xem. Các đội văn nghệ của xã đã tự biên, tự diễn nhiều tiết mục có giá trị giáo dục, được quần chúng ưa thích. Nghệ thuật biểu diễn của các đội văn nghệ không ngừng được nâng lên. Phong trào văn hóa, văn nghệ đã góp phần động viên cán bộ và nhân dân trong huyện hăng hái lao động sản xuất, công tác, chiến đấu; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh xóa bỏ hủ tục, mê tín dị đoan, xây dựng nếp sống văn hóa mới.

Phong trào vệ sinh phòng bệnh và chữa bệnh cho nhân dân được quan tâm hơn. Mạng lưới y tế trong huyện thường xuyên được củng cố. Đến năm 1972, toàn huyện có 15 trạm xá xã hoạt động đều đặn, có 4 trạm xá có y sĩ, 49 cán bộ y tá, 2 trạm xá có nữ hộ sinh. Bệnh viện huyện và các trạm xá xã được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị dụng cụ và đào tạo đội ngũ thầy thuốc. Bệnh xá huyện có 20 giường và có phòng mổ. Một số cán bộ, thầy thuốc ở Bản Máy, Thu tà, Xín Mần tận tình phục vụ nhân dân được nhân dân địa phương tin tưởng. Công tác tiêm phòng dịch bệnh được duy trì hằng năm. Phong trào ăn chín, uống sôi, vệ sinh môi trường, diệt ruồi, muỗi… được nhân dân tích cực tham gia. Tệ nạn mê tín dị đoan từng bước giảm dần. Nhận thức của nhân dân các dân tộc trong huyện được nâng cao, ngày càng tin tưởng vào khoa học, kỹ thuật.

Các ngành tài chính, ngân hàng, thương nghiệp đã góp phần không nhỏ vào những kết quả đạt được trên các mặt sản xuất, chiến đấu, chi viện cho chiến trường miền Nam, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước,v.v.. Trong những năm 1969 - 1972, tài chính, ngân hàng, thương nghiệp có nhiều cố gắng phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Về tài chính, năm 1969, tổng thu các khoản bằng tiền là 44.917,36đ, đạt 75%. Năm 1970, thu được 30.516đ đạt 73,8%. Trong việc đóng góp nghĩa vụ lương thực, năm 1969, huyện nhập kho 432.799 kg, đạt 110,79%. Năm 1970, nhập 455.496 kg, đạt 101,22% so với kế hoạch tỉnh giao. Ngoài nghĩa vụ đóng góp, huyện mua thêm 11.510,3 kg. Trong thu mua nông sản, thực phẩm, năm 1970, lợn hơi đạt 34,67%, trâu đạt 73,13%, gà, vịt 798 kg, đậu tương đạt 95,75% so với kế hoạch. Trong công tác vận động gửi tiền tiết kiệm, năm 1969, ở khối cơ quan trung bình một người đạt 89,13đ, nông thôn đạt 3,07đ. Năm 1970, khối cơ quan đạt 78,00đ, nông thôn đạt 2,81đ. Công tác thu thuế, thu nợ, thu mua và vận động gửi tiền tiết kiệm đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp làm cho giá cả thị trường được ổn định; giúp vốn để thực hiện các công trình thủy lợi, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi… Về thương nghiệp, huyện gặp khó khăn trong việc vận chuyển và một số mặt hàng khan hiếm, nhưng đã cố gắng khắc phục, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân về một số mặt hàng chủ yếu. Riêng năm 1970, nhập vào đạt giá trị 434.530,46đ, bán ra là 588.218,40đ, đạt 135,36% kế hoạch. Mỗi năm huyện đáp ứng được nhu cầu của nhân dân trên 50 tấn vật tư nông nghiệp, 25 tấn phân lân, 2.800 kg thuốc trừ sâu. Qua thực tiễn, nhân dân các dân tộc đã thấy được tác dụng của phân hóa học phục vụ cho sản xuất đưa năng suất tăng nhanh. Các ngành tài chính, ngân hàng, thương nghiệp đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho các hợp tác xã nông nghiệp vay vốn, quản lý vốn, quản lý hàng hóa, vật tư… để bảo đảm sản xuất ngày một tăng, kinh doanh có lãi, mặt khác nó phản ánh kịp thời và uốn nắn những sai sót, sơ hở trong quản lý kinh tế. Do vậy, đã giúp Đảng bộ thấy rõ những khuyết điểm trong lãnh đạo, kiểm tra và bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hợp tác xã, hạn chế được sự vi phạm của cán bộ, đảng viên đối với chế độ, nguyên tắc quản lý tài sản của Nhà nước và tập thể. Các ngành tài chính, ngân hàng, thương nghiệp còn hỗ trợ các hợp tác xã quản lý lao động, góp phần ổn định sản xuất và thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước, an ninh, quốc phòng, văn hóa, xã hội…

Đảng bộ thường xuyên chú trọng đến việc củng cố, nâng cao năng lực của chính quyền, xây dựng các đoàn thể quần chúng thật sự vững mạnh. Năm 1969 và năm 1971, công tác lãnh đạo bầu cử Hội đồng nhân dân huyện, xã đã được tiến hành. Kết quả bầu cử diễn ra nhanh gọn và đạt yêu cầu. Hội đồng nhân dân huyện, xã đã được kiện toàn và củng cố, đảm đương vai trò thực hiện các chức năng quản lý kinh tế, xã hội ở địa phương.

Phong trào thanh niên “3 sẵn sàng” tiếp tục phát triển rộng khắp các cơ sở trong huyện. Trong những năm 1969- 1972, Đoàn thanh niên đã động viên được hàng ngàn đoàn viên, thanh niên của huyện sẵn sàng chiến đấu và ghi tên nhập ngũ, tiêu biểu là các cơ sở đoàn Ngán Chiên, Thèn Phàng, Bản Díu, Thu Tà; đồng thời tham gia vào phong trào đưa Điều lệ hợp tác xã bậc cao vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, phong trào “5 cây, 3 con”. Đoàn viên, thanh niên trong huyện tổ chức học tập và làm theo khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”, tổ chức các phong trào cách mạng như: áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất, làm giao thông, thủy lợi, thành lập tiểu đội Thanh niên xung phong… Tuy vậy, do trình độ, năng lực tổ chức có hạn, nên hệ thống tổ chức Đoàn Thanh niên huyện Xín Mần chưa thực sự vững mạnh, chưa đảm đương vai trò lực lượng xung kích toàn diện trên mọi lĩnh vực công tác.

Phong trào phụ nữ “3 đảm đang” của huyện tiếp tục được đẩy mạnh. Phụ nữ của huyện là đội quân chủ lực ở lại quê hương tham gia sản xuất và chiến đấu tại chỗ. Trong toàn huyện, nhiều chị em tham gia vào các cơ quan đảng, chính quyền, các đoàn thể quần chúng, quản lý hợp tác xã và các công tác xã hội khác, tham gia vào lực lượng dân quân du kích, tự vệ địa phương. Ngoài ra, Hội Phụ nữ của huyện tham gia mở hội thi cấy giỏi, gặt nhanh, gương mẫu trong việc hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, động viên chồng con lên đường giết giặc, giúp đỡ các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình quân nhân vượt qua khó khăn. Hội Phụ nữ liên tục mở các lớp học tập các gương phấn đấu tốt trong lao động sản xuất, trong công tác ở những cơ quan, xí nghiệp, nông lâm trường… và học tập các gương dũng cảm của phụ nữ miền Nam như Lê Thị Hồng Gấm,v.v..

Mặt trận Tổ quốc của huyện luôn có những hoạt động mới, biết phát huy thắng lợi của Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ III của tổ chức học các văn kiện, nghiên cứu bài nói chuyện của đồng chí Trường Chinh tại Đại hội. Thông qua các thành viên của mình, Mặt trận đã tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện mọi đường lối, chủ trương của Đảng và Chính phủ, đoàn kết các dân tộc, thi đua lao động sản xuất giữ vững bản làng, vận động con cháu hăng hái lên đường làm nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước.

Bị thua ở miền Nam, ngày 30-3-1972, đế quốc Mỹ quay trở lại bắn phá ác liệt ở miền Bắc, nhằm nhanh chóng hủy diệt tiềm lực kinh tế và quốc phòng miền Bắc nước ta, ngăn chặn sự chi viện của hậu phương cho tiền tuyến. Đặc biệt là 12 ngày đêm Mỹ ném bom B52 xuống Thủ đô Hà Nội và các thành phố, khu vực đông dân khác của nước ta. Quân và dân miền Bắc với tinh thần cảnh giác cao, chiến đấu kiên cường, đập tan trận tập kích chiến lược lớn nhất của Mỹ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán. Ngày 27-1-1973, Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Miền Bắc trở lại không khí hòa bình. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Xín Mần phấn khởi, hăng hái lao động sản xuất, tích cực chi viện cho miền Nam, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” giành thắng lợi hoàn toàn cho Tổ quốc.

III- ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ, VĂN HÓA,
TÍCH CỰC CHI VIỆN CHO MIỀN NAM
(1973 - 1975)

Thắng lợi của Hiệp định Pari đã tạo ra bước ngoặt lớn cho cách mạng Việt Nam. Ngày 29-3-1973, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ về nước. Tuy vậy, đế quốc Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu chia cắt đất nước ta lâu dài, vẫn tiếp tục viện trợ cho ngụy quyền Sài Gòn về kinh tế và vũ khí chiến tranh. Cuộc chiến đấu của quân và dân ta chưa kết thúc. Để tăng cường sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, đập tan chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đầu năm 1973, Trung ương Đảng ra lời kêu gọi nhân dân miền Bắc hãy đem hết sức mình ra lao động sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh, củng cố hậu phương vững chắc, đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hà Giang nói chung và huyện Xín Mần nói riêng hăng hái bắt tay vào phát triển hơn nữa kinh tế địa phương, hết lòng chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.

Ngày 9-10-1973, Đảng bộ huyện Xín Mần đã tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ IV. Đại hội đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng bộ và nhiệm vụ năm 1972. Đại hội nhiệt liệt biểu dương tinh thần lao động và chiến đấu quên mình của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong huyện vì sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước và bàn phương hướng nhiệm vụ trong nhiệm kỳ tới, nhất là nhiệm vụ năm 1974.

Đại hội đề ra phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ là:

- Phát triển nông, lâm nghiệp, thủ công nghiệp, từng bước đưa nền kinh tế nông, lâm nghiệp của huyện tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa theo hướng tập trung, chuyên canh, thâm canh. Lấy việc phát triển nghề rừng, chăn nuôi, cây công nghiệp là chính, đồng thời coi trọng việc phát triển lương thực và thực phẩm. Tạo mọi điều kiện để tăng nhanh sản phẩm hàng hóa, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng tích lũy ngày càng nhiều cho hợp tác xã và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục củng cố hợp tác xã nông nghiệp; đẩy mạnh cơ sở vật chất kỹ thuật.

- Đẩy mạnh sự nghiệp văn hóa, xã hội, nâng cao trình độ hiểu biết về văn hóa, khoa học kỹ thuật và quản lý kinh tế. Bài trừ mê tín dị đoan. Xây dựng nếp sống văn hóa mới là đạo đức xã hội chủ nghĩa trong cán bộ và nhân dân các dân tộc, phục vụ tốt cho sản xuất và đời sống.

- Tăng cường củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương, đảm bảo đầy đủ yêu cầu tuyển quân và làm tốt chính sách hậu phương quân đội…

- Ra sức xây dựng Đảng vững mạnh, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, chất lượng đảng viên, phát huy vai trò tổ chức chính quyền, tổ chức các đoàn thể quần chúng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân để tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng.

Đại hội đề ra các mục tiêu phấn đấu của Đảng bộ năm 1974:

- Nắm ba thế mạnh của vùng cao núi đất, xác định lấy 1 hay 2 thế mạnh mà phấn đấu đi lên từng bước vững chắc trong điều kiện khó khăn của địa phương, trước mắt đẩy mạnh trồng cây gây rừng, bảo vệ rừng. Trồng và phát triển mạnh mẽ cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, tạo cơ sở để phát triển chăn nuôi về sau này.

- Nắm vững chuyên chính vô sản và tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa. Trong 3 cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy lẫn nhau. Với thực tế của huyện, thì việc học chữ là cấp bách nhất. Coi đó là nguồn gốc và cơ sở thực hiện cuộc cách mạng về lâu dài.

- Xây dựng và nâng cao quan điểm chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, có kế hoạch, quy hoạch, biện pháp đào tạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng từ cơ sở, hợp tác xã đến huyện đi vào vị trí, chức năng, trách nhiệm nhằm hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

- Đẩy mạnh việc mở rộng đường giao thông xuống các cơ sở vùng trọng điểm sản xuất lớn để tạo điều kiện cho việc phục vụ sản xuất khai thác lâu dài và thúc đẩy sản xuất đi vào bề sâu và có điều kiện tiến nhanh hơn.

Mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp và sự nghiệp văn hóa, giáo dục.

Về sản xuất lương thực, thực phẩm: Tổng diện tích đất trồng cây lương thực, thực phẩm có 3.845 ha, trong đó có 1.644 ha ruộng lúa bậc thang và 2.201 ha nương ngô thổ canh với phương châm ra sức thâm canh tăng vụ, tích cực cải tạo đất bạc màu, đưa năng suất lên từng bước vững chắc. Mặt khác, tiếp tục xác định phương hướng, cơ cấu cây trồng con nuôi cho phù hợp với khí hậu, thổ nhưỡng, kinh nghiệm, tập quán của từng vùng, dân tộc mà tạo ra cơ sở lâu dài về sau. Phấn đấu đưa vòng quay ruộng 1 vụ lên 2 vụ là 1.000 ha, bằng 62% tổng diện tích. Đưa nương bậc thang thổ canh lên 2 vụ là 1.012 ha, bằng 46% tổng diện tích. Đưa cây trồng xuống ruộng vụ xuân gồm các cây: lúa xuân, ngô, đậu tương, tam giác mạch… Ngoài ra, trồng sắn, dong riềng, lanh mèo, bông, mía, rau đậu các loại.

Năng suất cây trồng phấn đấu bình quân chung toàn huyện năm 1974 phải đạt từ 22 tạ đến 42 tạ/ha về lúa, ngô từ 9,6 tạ đến 11 tạ/ha, chia thành 2 vùng chỉ đạo.

Vùng I: Ruộng lúa cả năm đạt 42 tạ/ha. Lúa mùa đạt 30 tạ/ha. Vụ xuân đạt 12 tạ/ha kể cả đậu tương, cây hoa màu quy ra thóc.

Vùng II: Cả năm đạt 22 tạ/ha (kể cả đậu tương quy ra thóc) vùng này gồm các hợp tác xã trong toàn huyện.

Năng suất một số cây trồng chính cần phấn đấu: Ngô chính vụ 9,6 tạ/ha đến 11 tạ/ha. Ngô ruộng 9,6 tạ/ha, ngô vụ thu 5 tạ/ha. Mạch hoa 3 tạ/ha.

Phấn đấu bình quân mỗi người trong một năm đạt 210 kg.

Về chăn nuôi, phấn đấu mỗi hộ có từ 1 đến 3 con trâu hoặc bò, 1 ngựa thồ, 4 con lợn, 2 con dê, từ 20 đến 30 con gia cầm, từ 1 đến 3 đó ong lấy mật.

Về lâm nghiệp, mỗi lao động trồng 100 cây một năm. Toàn huyện trồng 170 ha rừng, làm vườn ươm cấy, chấm dứt nạn đốt phá rừng.

- Tập trung củng cố hợp tác xã, tổ chức lại sản xuất theo phương án kinh tế đã vạch ra. Phấn đấu xây dựng hợp tác xã đạt loại tiên tiến: 9, hợp tác xã đạt loại khá: 40, hợp tác xã đạt loại trung bình: 1, không còn hợp tác xã loại kém.

- Tích cực xây dựng, củng cố Đảng, thực hiện cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên theo tinh thần Nghị quyết 195 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 192 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

Sau 7 ngày làm việc, Đại hội đã ra Nghị quyết về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, quân sự, v.v..Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ khóa IV gồm 17 đồng chí, trong đó có 2 đồng chí là dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn Chữ được bầu làm Bí thư Huyện ủy.

Thành công của Đại hội đã kịp thời chuyển mọi hoạt động của huyện phù hợp với tình hình mới.

Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, năm 1973, phong trào hợp tác hóa, cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp đạt kết quả tốt. Thời kỳ này, huyện có 132 hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đa số nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể. Việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất được đẩy mạnh. Phân bón, thuốc trừ sâu… đã được sử dụng rộng rãi trong sản xuất. Trong các hợp tác xã nông nghiệp đã có các đội chuyên như chuyên thủy lợi, chuyên làm đất, chuyên gieo cấy, chuyên làm giống… Công tác thủy lợi được tăng cường. Hệ thống mương, phai, cống thoát nước được xây dựng tương đối hoàn chỉnh. Năm 1973, vụ đông – xuân, diện tích cấy lúa đạt 48,3%. Các chỉ tiêu chính của 2 vụ, tính đến tháng 10-1973, sắp đạt chỉ tiêu của tỉnh giao. Phong trào thâm canh, tăng năng suất có tiến bộ trên các mặt: làm đất, cấy mau, làm cỏ, bón phân, cấy kịp thời vụ, chủ động đắp bờ giữ nước, v.v.. Năm 1974, diện tích gieo trồng của huyện đạt 6.845 ha. Đất bình quân 1 lao động phải làm cả năm là 0,53 ha. Sản lượng thu hoạch cả năm lúa, ngô đạt 6.113 tấn. So với kế hoạch tỉnh giao vượt 252 tấn. Song so với sản lượng năm 1973 hụt 90 tấn. Tính bình quân lương thực toàn huyện là 186,2 kg/người/năm. Đến năm 1975, sản lượng lương thực cả năm đạt 6.738,4 tấn, tăng 438,4 tấn. So với năm 1974, sản lượng lương thực năm 1975 tăng 625,4 tấn. Đậu tương thu hoạch đạt 255,4 tấn, vượt kế hoạch đề ra là 25,4 tấn.

Về chăn nuôi, ở Xín Mần đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển chăn nuôi gia súc lớn và nuôi lợn, dê, cải tạo tập quán chăn nuôi lạc hậu. Tính đến tháng 4-1973, đàn gia súc so với năm 1971: trâu tăng 415 con, bò tăng 209 con, ngựa tăng 409 con, lợn tăng 2.011 con, dê tăng 566 con. Tính bình quân theo mỗi hộ: trâu 1,4 con, ngựa 0,9 con, lợn 2,1 con, dê 0,8 con. Nhìn chung, đàn gia súc của huyện phát triển cả về số lượng và trọng lượng. Một số hợp tác xã đã làm chuồng theo nhà, theo đội. Nhờ chăn nuôi phát triển, sức kéo được bảo đảm, nhân dân đã tích cực đóng góp thực phẩm cho Nhà nước. Tuy vậy, từ năm 1973 đến năm 1975, Huyện ủy Xín Mần chưa có nghị quyết phát triển chăn nuôi riêng biệt, chưa có biện pháp cụ thể, chưa quan tâm đến vấn đề giống, xây dựng cơ sở phát triển giống nên đàn gia súc của huyện phát triển, nhưng hoàn toàn chưa đạt được sự tăng trưởng mạnh.

Ngành lâm nghiệp trong ba năm (1973 - 1975) đã có nhiều cố gắng trong việc bảo vệ rừng, trồng rừng, khoanh rừng, tu bổ rừng, đồng thời khai thác hợp lý theo kế hoạch. Phong trào trồng rừng diễn ra sôi nổi. Diện tích trồng rừng hàng năm đều tăng. Phấn đấu đến năm 1980 trồng 4.000 ha, có phân vùng rõ ràng, tăng cường trồng cây trên đồi hoang núi trọc, nhằm chống xói mòn đất, lấy gỗ phục vụ cho địa phương, ngoài ra còn giữ độ ẩm cho đất.

Về tiểu thủ công nghiệp, trong 3 năm (1973- 1975) đã có chuyển biến mới. Huyện đẩy mạnh phát triển các lò rèn, đúc dao, lưỡi cày và sửa chữa nông cụ cho các hợp tác xã nông nghiệp. Nghề dệt vải, thêu, đan lát cũng phát triển. Sản phẩm hàng hóa tiểu thủ công nghiệp của Xín Mần không chỉ mang tính tự cấp, tự túc mà đã vươn ra ngoài địa phương, giao lưu hàng hóa với các nơi khác, góp phần thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.

Nhằm đẩy mạnh việc củng cố hợp tác xã, các cấp ủy và chính quyền các cấp đã chú trọng tổ chức lại sản xuất ở các hợp tác xã trong toàn huyện. Nhìn chung, các hợp tác xã đã thực hiện việc phân loại lao động, tổ chức lại đội chuyên, xây dựng kế hoạch năm, vụ, chú trọng đến việc quản lý tài sàn, phân phối theo lao động, bố trí cơ cấu giống thích hợp, đưa những giống mới có năng suất cao vào gieo trồng, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Năm 1973, toàn huyện đã triển khai đưa Điều lệ hợp tác xã bậc cao vào hợp tác xã, tạo điều kiện thuận lợi trong việc sắp xếp, tổ chức lại sản xuất. Toàn huyện đã có 70/132 hợp tác xã đưa Điều lệ vào hợp tác xã. Hợp tác xã đạt tiên tiến có 2, hợp tác xã đạt loại khá 34, hợp tác xã đạt loại trung bình 53, hợp tác xã đạt loại kém 44. Huyện ủy thường xuyên bám sát cơ sở, uốn nắn những hiện tượng lệch lạc, sai trái tiếp tục đưa Điều lệ vào hợp tác xã. Đến năm 1975, trong phong trào hợp tác hóa nông nghiệp của huyện đã xuất hiện thêm một số hợp tác xã tiên tiến và khá. Ngày 10-7-1974, Đảng bộ tiến hành tổng kết 14 năm xây dựng và củng cố hợp tác xã nông nghiệp ở nông thôn. Nhờ có hợp tác hóa, nhân dân các dân tộc đoàn kết giúp đỡ nhau trong sản xuất, chiến đấu và đời sống hàng ngày; làm tốt công tác hậu phương, con em các dân tộc trong huyện yên tâm lên đường đánh Mỹ, bảo vệ Tổ quốc; áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến đồng ruộng từ một vụ lên hai vụ trên 60% diện tích toàn huyện; bảo đảm mức sống nhân dân, xây dựng được cơ sở vật chất trong huyện. Nhân dân các dân tộc trong huyện một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, tin tưởng vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta nhất định thắng lợi. Mặt khác, hợp tác xã cũng đã bắt đầu bộc lộ nhiều yếu kém trong khâu tổ chức lại sản xuất, phân công lao động, cán bộ quản lý hợp tác xã còn thiếu, yếu về trình độ, năng lực… cản trở sức sản xuất phát triển, đòi hỏi Đảng bộ huyện Xín Mần phải nghiên cứu, vận dụng cho thích hợp với hoàn cảnh của địa phương.

Về giao thông vận tải, ngày 3-2-1975, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc hai huyện Xín Mần và Hoàng Su Phì vui mừng khánh thành con đường từ Hoàng Su Phì đến Cốc Pài dài hơn 40 km. Toàn tuyến đường này đã phải đào đắp 822.686 m3 đất, phá các vách đá 274.379 m3, xây 1.100 m3 kè đá, chi hết 2.408.000 đồng, 464.343 kg gạo chênh lệch cho dân công…; xây dựng 3 cầu dài 129 m (cầu xã Vinh Quang, cầu Suối Đỏ, cầu Cốc Pài) với 1.654.578 ngày công, trong đó nhân dân huyện Xín Mần đóng góp 758.035 công… Huyện đã làm xong 2 cầu treo Thèn Phàng đi Ngán Chiên, Cốc Pài đi Nấm Dẩn. Do có đường giao thông thuận tiện từ Xín Mần tới thị xã Hà Giang và các con đường liên xã, vận chuyển hàng hóa ngày càng nhiều, đời sống của nhân dân được nâng lên, có điều kiện bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc.

Công tác văn hóa xã hội, mặc dù huyện gặp rất nhiều khó khăn, nhưng sự nghiệp giáo dục ở Xín Mần vẫn tiếp tục được duy trì, phát triển. Mạng lưới trường lớp vỡ lòng, trường phổ thông cấp I, trường bổ túc văn hóa được xây dựng rộng khắp. Phong trào toàn dân tham gia xây dựng giáo dục đã gây được ý thức trong nhân dân, có tác dụng thiết thực trong việc làm trường lớp cho con em học tập. Tuy vậy, trường phổ thông cấp II của huyện duy trì chưa được đều đặn.

Công tác y tế của huyện đã có nhiều cố gắng trong việc phòng ngừa, chữa bệnh. Trong 3 năm (1973 - 1975), toàn huyện không xảy ra bệnh dịch lớn. Bệnh viện huyện và một số trạm xá đã khắc phục khó khăn, thiếu thốn về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, đã chữa được một số ca bệnh hiểm nghèo, đáp ứng được một bước về công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân. Các hoạt động về văn hóa, văn nghệ được duy trì và phát triển đều đặn.

Trong 3 năm (1973 - 1975), sản xuất nông nghiệp của huyện phát triển, đời sống nhân dân ổn định. Các chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách hậu phương quân đội được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm coi trọng, hết lòng chăm sóc để thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội ổn định đời sống. Các cấp ủy, chính quyền và nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về lương thực, thực phẩm với Nhà nước, ra sức động viên con em lên đường nhập ngũ, đi chiến đấu giải phóng miền Nam, làm tròn trách nhiệm và nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Trong 3 năm, Xín Mần đều hoàn thành và vượt mức kế hoạch giao quân, đảm bảo về thời gian. Con em của nhân dân các dân tộc Xín Mần đã chiến đấu dũng cảm, lập được nhiều chiến công, cùng quân và dân miền Nam giành chiến thắng trong Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 lịch sử.

Phong trào quần chúng vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hăng hái tham gia phong trào “3 đảm đang”, “3 sẵn sàng”. Trong 3 năm (1973 - 1975), thanh niên của huyện đã đóng góp nhiều công sức vào việc xây dựng và hoàn thành con đường Hoàng Su Phì đi Cốc Pài và cùng nhiều con đường liên xã trong huyện.

Ngày 28-11-1974, Đại hội đại biểu lần thứ V của Đảng bộ huyện được tổ chức nhằm chuẩn bị về mọi mặt để tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI. Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ huyện. Thảo luận, đóng góp ý kiến vào các văn kiện chuẩn bị cho Đại hội lần thứ VI của Đảng bộ tỉnh và bầu đại biểu đi dự Đại hội lần thứ VI. Đại hội họp trong 7 ngày và bầu ra Ban Chấp hành mới. Đồng chí Nguyễn Văn Chữ được bầu lại làm Bí thư Huyện ủy. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ năm 1975 là:

1. Đảng bộ phải nắm vững và làm đúng nhiệm vụ chuyên chính vô sản, tiến hành ba cuộc cách mạng, lấy việc củng cố hợp tác xã làm trọng tâm.

2. Giải quyết tốt đời sống của nhân dân trong huyện, phải đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất, nhất là lương thực, chăm sóc đàn gia súc, trồng nhiều lúa ngô, đậu tương đúng kỹ thuật, có năng suất cao.

3. Đảng bộ có trách nhiệm đóng góp sức người, sức của cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và cách mạng miền Nam đúng với khả năng của mình.

4. Luôn nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, xây dựng tốt lực lượng vũ trang và công an để sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ trị an tốt.

5. Đảng bộ huyện đặt vấn đề đào tạo cán bộ về mọi mặt là cấp bách. Chăm lo việc học tập, bảo vệ sức khỏe cho quần chúng được tốt, muốn vậy phải xây dựng được chi bộ đảng tốt.

Đại hội đã đề ra một số chỉ tiêu cụ thể như sau:

Phấn đấu hết năm 1975, tổng sản lượng lương thực đạt 6.300 tấn. Để đạt được mục tiêu này, 42 hợp tác xã trọng điểm lúa ở xã Tả Nhìu, Thu Tà, Cốc Rế, Ngán Chiên, Bản Díu, Thèn Phàng và 3 hợp tác xã ở Chế Là cần phải đạt năng suất từ 27 tạ đến 30 tạ/ha. Các hợp tác xã trồng lúa khác đạt từ 20 tạ/ha trở lên, ngô đạt 9 tạ/ha. Năng suất trung bình toàn huyện đạt 50 kg/1 kg giống.

Đậu tương trồng từ 600- 700 ha. Tổng sản lượng cả năm đạt 210 tấn đến 230 tấn. Năng suất bình quân đạt 3,5 tạ/ha.

Trồng 100 ha chè, trồng 1,5 ha đến 2 ha dược liệu. Mỗi hộ nuôi từ 2 đến 4 con trâu, bò. Trồng từ 80 ha đến 100 ha rừng phòng hộ và dân dụng.

Để thực hiện được những chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra, các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần có sự phấn đấu cao hơn nữa trong lãnh đạo, gương mẫu tập trung trí tuệ để lãnh đạo quần chúng, các ngành. Củng cố tổ chức cơ sở đảng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ tốt. Chính quyền cần được củng cố tổ chức, nâng cao được trình độ quản lý nhà nước, quản lý tốt kinh tế tập thể xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan chuyên môn nội chính cần phát huy chức năng của mình làm tốt công tác tham mưu cho Đảng và chính quyền đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, làm tốt công tác trật tự trị an từ nội địa đến biên giới. Các tổ chức quần chúng, thanh niên, phụ nữ, mặt trận cần phát huy chức năng của ngành, giới mình thực hiện tốt ba cuộc cách mạng.

Năm 1974, quân và dân ta liên tiếp giành được nhiều thắng lợi trên khắp các chiến trường. Ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, chống cự yếu ớt trước sức tấn công quyết liệt của quân và dân ta. Đầu năm 1975, Hội nghị Bộ Chính trị quyết định mở cuộc tổng tiến công đánh bại hoàn toàn chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn, giải phóng miền Nam. Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ngày 30-4-1975, quân và dân ta đã giải phóng Sài Gòn, chế độ ngụy quyền hoàn toàn sụp đổ. Với thắng lợi đó, cách mạng miền Nam toàn thắng, nước nhà thống nhất, cách mạng Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần cùng cả nước, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trực tiếp là Tỉnh ủy Hà Giang, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG III

ĐẢNG BỘ VỚI NHIỆM VỤ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG CỦA TỔ QUỐC
(1975-1985)

I- CHĂM LO ĐỜI SỐNG, CỦNG CỐ SỨC MẠNH CỦA TỔ CHỨC

Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tạo ra bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần phấn khởi bước vào một thời kỳ mới với nhiều thuận lợi và khó khăn khác nhau.

Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần tuy đạt được nhiều thành tựu lớn lao nhưng vẫn chưa đủ sức đưa địa phương thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp, độc canh và lạc hậu. Đây là một thời kỳ mà nền nông nghiệp của huyện phát triển trong sự tác động trực tiếp của mô hình tổ chức sản xuất hợp tác xã bậc thấp, ruộng đất và các tư liệu sản xuất được tập thể hóa một cách nhanh chóng và tương đối triệt để.

Quan hệ sản xuất tập thể sau một thời gian ngắn phát huy tác dụng trên một số mặt (thủy lợi, cải tạo ruộng nương, đưa giống mới vào cơ cấu cây trồng) đã bước vào giai đoạn sản xuất giảm sút. Thu nhập của xã viên thấp kém vì sản lượng lương thực quy thóc cùng năng suất lúa, cây ngắn ngày đều giảm. Hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã không cao. Những xu hướng không lành mạnh của kinh tế tập thể xuất hiện sau khi hoàn thành hợp tác xã nông nghiệp. Niềm tin của xã viên vào hợp tác xã bị phai nhạt. Sự gắn bó với kinh tế tập thể cũng phai nhạt theo.

Vấp phải những khó khăn trên, rõ ràng trong chỉ đạo, Đảng bộ huyện Xín Mần đã thúc đẩy phong trào hợp tác xã quá nhanh trong lúc chưa hội đủ những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của các tổ chức kinh tế tập thể mới xây dựng. Cán bộ quản lý các hợp tác xã đã thiếu, trình độ lại còn quá yếu cộng với cơ sở vật chất hầu như chưa có gì, kỹ thuật canh tác lạc hậu và quá tách biệt đã dẫn đến sự bất cập và mâu thuẫn giữa yêu cầu giải phóng sức sản xuất và sự hạn chế của quan hệ sản xuất tập thể hóa. Cũng do tư tưởng nóng vội chạy theo phong trào nên địa phương đã vi phạm nguyên tắc tự nguyện và quản lý dân chủ khi tổ chức hợp tác xã.

Tính đến cuối năm 1975, toàn huyện Xín Mần có 125 hợp tác xã nông nghiệp với 344 đội sản xuất, thu hút 4.911 hộ với 31.006 nhân khẩu, trong đó có tất cả 11.362 lao động chính và 4.075 lao động phụ. Mô hình hợp tác xã bậc cao, quy mô lớn mới chỉ tạo ra được 1 hợp tác xã toàn xã là Tả Nhìu, còn lại đều là hợp tác xã bậc thấp. Sau khi phân loại chỉ có 48 hợp tác xã được xếp vào loại khá (38,4%) 50 hợp tác xã thuộc loại trung bình (40%) và 37 hợp tác xã thuộc loại yếu kém (21,6%).

Do tình hình diễn biến kể trên, cuộc vận động tổ chức lại sản xuất nông nghiệp nhằm chuyển toàn bộ hợp tác xã quy mô thôn bản lên quy mô toàn xã để đội sản xuất mở rộng lên quy mô thôn ở Xín Mần vẫn đang được tiến hành nhằm tập thể hóa ruộng đất, trâu bò, nông cụ. Lao động được tổ chức theo hướng các đội chuyên áp dụng hình thức khoán việc và nhận công điểm theo kết quả đó.

Trong quá trình chỉ đạo, Đảng bộ huyện Xín Mần đã nhận thức được những tồn tại và hạn chế kể trên. Số lượng hợp tác xã tuy có ổn định nhưng phong trào tập thể hóa sản xuất nông nghiệp đã nảy sinh nhiều vấn đề. Khâu tổ chức lại sản xuất, sắp xếp bố trí lao động còn nhiều tồn tại. Việc phân công lao động theo ngành nghề để sản xuất đi vào quy mô làm ra sản phẩm hàng hóa không trở thành hiện thực, không vượt qua tình trạng sản xuất tự cấp, tự túc. Chủ trương đào ruộng bậc thang mới dừng lại ở biện pháp và việc hô hào chung chung; nơi nào thực hiện thì làm không đúng kỹ thuật nên chi phí khá lớn mà hiệu quả kinh tế hầu như chưa có. Đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã quá yếu kém nhưng việc đào tạo, bồi dưỡng họ còn chắp vá, chưa có phương án và kế hoạch đào tạo số cán bộ kế cận để thay thế những người già và mù chữ. Việc lên phương án ăn chia thường tiến hành chậm. Một số hợp tác xã vùng cao còn ăn chia theo đội.

Để khắc phục tình trạng trên, Đảng bộ huyện Xín Mần đã kiên quyết tiếp tục củng cố các hợp tác xã, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp để nâng nhanh năng suất cây trồng, mạnh dạn sử dụng các giống lúa mới cho năng suất cao, đẩy mạnh thâm canh để thực hiện cho bằng được mục tiêu bảo đảm cho xã viên đủ ăn, đời sống ngày một nâng cao và làm đủ nghĩa vụ về lương thực đối với Nhà nước. Mục tiêu phấn đấu cho những năm trước mắt là:

- Từng bước tổ chức lại sản xuất theo hướng thâm canh, chuyên canh và tăng vụ dựa trên cơ sở phát huy thế mạnh của huyện về các loại cây trồng chủ yếu để dần dần xây dựng cấp huyện thành cấp kinh tế và quản lý kinh tế một cách toàn diện, nhất là đối với nông lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

Đẩy mạnh sản xuất lương thực, lấy cây lúa và cây ngô là cây lương thực chủ yếu của huyện.

Phát triển cây màu (sắn, dong riềng, mạch). Đẩy mạnh cây đậu tương, cây dược liệu , trồng rừng phòng hộ để xanh hóa đồi núi trọc, nhất là vùng biên giới và đầu nguồn nước. Hoàn chỉnh công tác quy hoạch bước đầu cho từng vùng trên địa bàn của xã và hợp tác xã, giữa đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp. Trên cơ sở đó, bố trí và phân công lao động hợp lý giữa các ngành sản xuất về trước mắt cũng như lâu dài.

Các ngành, ban cấp huyện theo chức năng của mình có trách nhiệm hỗ trợ cơ sở xã và hợp tác xã, nhất là đối với sản xuất nông, lâm nghiệp. Trạm vật tư nông nghiệp cùng các phòng (tiểu thủ công nghiệp, giao thông, thủy lợi) là những đơn vị có liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế ở địa phương, phục vụ một cách đắc lực kỹ thuật, vật tư, nước tưới, vận chuyển hàng hóa và lâm nông sản. Việc hoàn chỉnh hệ thống tiểu thủy nông phục vụ tưới tiêu cho cây trồng ngày càng trở thành cấp thiết.

Một trong những nhiệm vụ phải gấp rút hoàn thành, đó là các xã và hợp tác xã phải nhanh chóng nắm vững tình hình về quỹ đất đai, sản xuất nông, lâm nghiệp, lao động, tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục tiến hành công tác định canh, định cư nhằm ổn định sản xuất và ổn định lao động tại chỗ. Các biện pháp về khai thác nương ruộng bậc thang để thâm canh cây trồng và hướng dẫn bảo đảm mật độ cấy (20x20 hoặc 20x18) cũng được đề ra để thực hiện.

- Trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo kinh tế tiến hành giao chỉ tiêu pháp lệnh chính thức của Nhà nước cho cơ sở và các đơn vị. Các ban, ngành phải có sự chỉ đạo chặt chẽ, thực hiện tốt các mục tiêu, nhất là ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, nhằm bảo đảm gieo trồng hết diện tích, phấn đấu đạt tổng sản lượng ở những cây chủ yếu như cây lương thực (lúa, ngô), cây công nghiệp (đậu tương) như kế hoạch đã đề ra; phân phối kịp thời vật tư cho nông nghiệp (phân bón, thuốc trừ sâu). Ngành tiểu thủ công nghiệp đẩy mạnh tốc độ sản xuất dụng cụ thông thường, cần thiết để phục vụ sản xuất. Ngành thủy lợi tu sửa và xây dựng mới những công trình tiểu thủy nông phục vụ tưới tiêu kịp thời vụ. Các ngành tăng cường cán bộ xuống cơ sở chỉ đạo đôn đốc trong việc phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội trong toàn huyện.

- Trên cơ sở các mặt công tác đã đề ra, phát động phong trào thi đua sôi nổi rộng khắp trong quần chúng thực hiện các mục tiêu này, nhằm phát huy tinh thần làm chủ tập thể, làm chủ xã hội, tăng cường công tác thủy lợi; phát triển phong trào làm nương bậc thang, làm phân xanh, thâm canh tăng vụ đối với cây trồng, hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước, nâng cao chất lượng sản phẩm, đóng góp ngày công lao động có ích với mức cao nhất cho xã hội, đưa hàng hóa kịp thời vụ đến tận người tiêu dùng, tăng cường tiếp thu khoa học kỹ thuật, tiếp thu bộ giống mới có năng suất cao.

Kết thúc năm 1975, tổng sản lượng lương thực của toàn huyện Xín Mần đạt được là 6.738,4 tấn tăng 438,4 tấn so với năm trước. Tổng sản lượng đậu tương thu được 255,4 tấn vượt 25,4 tấn so với chỉ tiêu đề ra.

Năm 1976, tổng sản lượng lương thực đạt 7.520 tấn bằng 103% so với kế hoạch. Dẫn đầu phong trào tự túc lương thực là các xã Tả Nhìu, Chế Là, Cốc Rế, Nấm Dẩn, Bản Ngò, Bản Pắng, Bản Máy, Chí Cà. Riêng xã Cốc Rế đạt được cả ba chỉ tiêu về diện tích gieo trồng, năng suất và sản lượng.

Vụ đông - xuân, diện tích trồng ngô đạt 334 ha, thấp hơn 44 ha so với kế hoạch và cho năng suất 13 tạ/ha, như vậy
1 kg ngô giống đã cho thu hoạch 65kg ngô hạt. Đậu tương trồng được 579,1 ha cho sản lượng 159 tấn, vượt kế hoạch 1 tấn. Có 7 xã trồng đậu tương đạt sản lượng cao là Tả Nhìu, Cốc Rế, Chế Là, Bản Pắng, Bản Phùng, Thu Tà, Nàn Ma. (Tả Nhìu thu hoạch 12 kg/1kg giống, Cốc Rế 11 kg/1kg  giống).

Cả huyện còn trồng được 496 ha lúa mạch, thu 48 tấn bằng 66% mức kế hoạch đề ra.

Ngoài ra, nhân dân còn khai phá được 104,2 ha ruộng bậc thang (vượt 84,2 ha) và 81,2 ha nương bậc thang (vượt 51,2 ha) và được nghiệm thu với số tiền là 56.877,12đ.

Vụ mùa năm 1976 diện tích trồng lúa của cả huyện lên tới 1.710 ha, tương đương với 83.394 kg giống. Các hợp tác xã đã đưa được nhiều giống mới vào cơ cấu cây trồng. Mỗi hécta lúa đã được bón 4.380 kg phân.

Bảy xã vùng chè đã tăng cường chăm sóc cho 243 ha, thu hoạch được 9.220,7 kg, bằng 115,3% kế hoạch. Các hợp tác xã còn trồng được 166.962 cây xa mộc, tương đương 3.727 ha. Các xã viên cũng trồng được 15.572 cây, tương đương 34 ha. Việc khoanh nuôi bảo vệ rừng đạt 190% kế hoạch, cải tạo được 105 ha. Xã Xín Mần phát triển thêm được 0,9 ha tam thất, thu hoạch được 17 kg tam thất củ 3 tuổi bán cho ngành dược phẩm.

Trong năm này, đàn gia súc của toàn huyện so với chỉ tiêu tăng 8%, trong đó đàn trâu tăng 6,9%, đàn bò tăng 2,5%, đàn dê tăng 4,6% và đàn lợn tăng 9,5%. Riêng đàn ngựa chỉ đạt 90,4%.

Năm 1977 tổng sản lượng lương thực đạt 8.015 tấn, bình quân nhân khẩu ở vùng cao đạt 230 kg/người/năm và vùng thấp là 290 kg (26 kg/người/tháng). Đậu tương cho thu hoạch 475 tấn, tính ra mỗi nhân khẩu trong huyện thu hoạch 15 kg. Chăn nuôi có bước phát triển, trong đó đàn trâu, bò có 8.600 con, đàn lợn có 10.000 con – bình quân mỗi hộ 2 con, đàn dê 5.000 con và đàn ngựa 4.700 con.

Toàn huyện kiến thiết được 560 ha ruộng bậc thang, chuyển dân xuống huyện Yên Sơn (Tuyên Quang) được 65 hộ với 466 khẩu.

Thủ công nghiệp cung cấp được 19.100 công cụ cầm tay, 1.350.000 viên gạch, ngói.

Năm 1978, toàn huyện gieo trồng được 7.417 ha bằng 73% kế hoạch, trong đó lúa đạt 2338,3 ha bằng 108% kế hoạch; màu đạt 3234,8 ha bằng 95,93%; đậu tương 208,2 ha bằng 61,3%.

Mặc dầu vậy, tổng sản lượng lương thực trong năm chỉ đạt 7584 tấn bằng 92% kế hoạch. Năng suất lúa xuân là 20,5 tạ/ha; lúa mùa là 27,7 tạ/ha, lúa nương 11,98 tạ/ha; ngô xuân 8,4 tạ/ha, đậu tương xuân 2,96 tạ/ha; đậu tương thu 2,60 tạ/ha.

Qua các số liệu năm 1978 ta thấy nền kinh tế chủ đạo của huyện là sản xuất nông nghiệp thì bấp bênh, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Phong trào làm ăn tập thể phát triển nhanh nhưng không vững. Sự giản đơn, nóng vội, chạy theo phong trào và thành tích chủ nghĩa đã hạn chế sự phát triển của hoạt động kinh tế và các hoạt động văn hóa xã hội. Phân phối trong các hợp tác xã mang nặng tính bình quân, bao cấp và không có tác dụng kích thích sản xuất với nguyên tắc ưu tiên cho nộp thuế, bán nghĩa vụ, bán khuyến khích, để giống và giành cho chăn nuôi cùng các quỹ khác. Số còn lại mới chia cho xã viên theo phương thức “tối thiếu 13, tối đa 18” nhằm chia đều cái nghèo cho mọi gia đình, cào bằng cống hiến và hưởng thụ của người lao động. Chính những việc làm trên đây đã dẫn đến tình trạng giảm sút năng suất và sản lượng cây trồng, vật nuôi.

Trong khi mức thu mua lương thực năm 1978 là 260,74 tấn (vụ xuân 222,74 tấn, vụ mùa 48 tấn) thì nhiều sản lượng và tổng đàn khác ngoài lương thực lại giảm sút nặng. Đậu tương chỉ cho thu hoạch 48,73 tấn bằng 20% kế hoạch. Đàn trâu, bò có 7.680 con (7.090 con trâu, 590 con bò), đàn lợn đạt 10.380 con và mức trâu hơi làm nghĩa vụ cho Nhà nước lên tới 19.578 kg (97,3%), lợn hơi 26.643 kg. Có lẽ chỉ có chè là đạt được 101% so với kế hoạch (12,237 tấn) trong đó các xã Cốc Rế, Nấm Dẩn đạt 145,4% còn Bản Ngò chỉ có 8,1%.

Sự nghiệp giáo dục của Xín Mần không mấy khả quan. Năm học 1978, chỉ có 17 cháu đến lớp mẫu giáo, so với chỉ tiêu hụt mất 8 cháu. Từ lớp vỡ lòng đến lớp 4 có 2.832 học sinh, giảm 76 học sinh so với niên học trước. Học sinh cấp II chỉ có 56 em, hàng ngày sĩ số lên lớp chỉ đạt 70-80%. Một số xã vùng biên giới học sinh ít đi học.

Trường phổ thông lao động có 72 học viên, trường thanh niên dân tộc có 112 học viên, trường thiếu nhi rẻo cao mới được thành lập có 57 học sinh. Thực hiện chủ trương của tỉnh, mở chiến dịch ánh sáng văn hóa, phong trào xóa mù chữ phát triển ở 125 hợp tác xã với 158 lớp và 2.583 học viên. Đã tổ chức cho 1.475 học viên thi mãn khóa. Có xã như Thu Tà có 96% học viên dự thi đã giành được kết quả tốt. Năm 1978, huyện được công nhận cơ bản xóa mù chữ.

Công tác văn hóa, thông tin, tuyên truyền được đẩy mạnh, đảm bảo đưa đường lối của Đảng và Nhà nước đến được với các dân tộc theo trình độ phù hợp nhất, góp phần nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa mới. Trong các lĩnh vực cưới xin, ma chay vẫn còn nhiều tồn tại như kết hôn không đúng tuổi, trong đó có cả cán bộ và nhân dân.

Ngành y tế tăng cường công tác khám, chữa bệnh cho cán bộ, nhân dân và tuyên truyền phòng chống dịch bệnh, làm các công trình vệ sinh và chuồng trại gia súc xa nhà, làm hố ủ phân rác. Riêng công tác tiêm phòng đạt khá.

Công tác tài chính, ngân hàng, thương nghiệp đảm bảo cân đối thu chi, vận chuyển hàng hòa phục vụ đồng bào các dân tộc. Tuy nhiên, trong mùa mưa lũ vẫn còn xảy ra tình trạng thiếu dầu, thiếu muối. Công tác quản lý thị trường chưa tốt. Nhân dân còn vượt biên buôn bán trái phép.

Để tăng cường sức chiến đấu của tổ chức, Đảng bộ huyện Xín Mần đã không ngừng tăng cường công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể quần chúng.  Ngay trong tháng 7-1975, Đảng bộ đã tiến hành tổng kết vận động nâng cao chất lượng đảng viên, đợt kết nạp Lớp đảng viên Hồ Chí Minh, đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. Trong thời gian tiến hành các đợt vận động kể trên, Đảng bộ đã triển khai nhiều Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương Đảng (Nghị quyết 195, Chỉ thị 192, Nghị quyết 23), mở được 4 lớp cho gần 100 đảng viên theo học chương trình 14 bài cơ sở, cử nhiều cán bộ và đảng viên đi học các trường đảng (tỉnh, khu, trung ương) và học bổ túc văn hóa nâng cao trình độ. Được tiến hành từ năm 1971, các cuộc vận động kể trên đã góp phần làm cho Đảng bộ thêm trong sạch về chính trị, ý thức tổ chức kỷ luật được nâng cao, tính giai cấp của Đảng được củng cố, tinh thần trách nhiệm của đảng viên được tăng cường. Song vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề như việc đào tạo và bồi dưỡng còn chắp vá, nhiều đảng viên vẫn chưa được học qua lớp lý luận 14 bài cơ sở, công tác phát triển đảng còn chậm (chỉ có một số ít chi bộ phát triển được 3-4 đảng viên mới, còn hầu hết chỉ kết nạp được 1-2 đảng viên). Đạo đức của đảng viên nhìn chung chưa được nâng cao ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ. Năng lực của đa số đảng viên còn quá thấp (chỉ biết lo mà chưa có cách giải quyết, biết biện pháp mà không có chủ trương kế hoạch chỉ đạo, thấy hiện tượng mà không thấy nguyên nhân).

Ngày 30-12-1975, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Xín Mần lần thứ VI được triệu tập. Về dự Đại hội có 72 đại biểu đại diện cho 534 đảng viên thuộc 31 tổ chức cơ sở đảng. Sau mấy ngày thảo luận sôi nổi, Đại hội đã thông qua Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ trước, phương hướng nhiệm vụ công tác năm 1976 và tiến hành bầu ra Ban Chấp hành Đảng bộ mới với 15 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Đảng bộ khóa VI đã cử ra Ban Thường vụ gồm 5 ủy viên do đồng chí Nguyễn Văn Chữ làm Bí thư.

Tiếp theo đó, ngày 13-6-1977, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Xín Mần lần thứ VII được tổ chức với sự tham gia của 89 đại biểu. Qua 3 ngày làm việc khẩn trương và đầy tinh thần trách nhiệm, Đại hội đã thông qua báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ VI, phương hướng nhiệm vụ mới và bầu 17 ủy viên chính thức, 1 ủy viên dự khuyết vào Ban Chấp hành Đảng bộ khóa VII. Đồng chí Nguyễn Văn Chữ được tái cử làm Bí thư Huyện ủy.

Trong thời gian giữa hai nhiệm kỳ và thời gian tiếp theo, Đảng bộ đã tăng cường công tác giáo dục chính trị, nâng cao trình độ và ý thức tổ chức kỷ luật cho đảng viên. Đã triển khai Chỉ thị 22 của Ban Bí thư Trung ương Đảng xuống tận các cơ sở đảng, phân loại được 15/18 chi bộ nông thôn (249/266 đảng viên đủ tư cách), 17 chi bộ cơ quan (183/188 đảng viên đủ tư cách). Trong tổng số 454 đảng viên tham gia phân loại có 431 đảng viên đủ tư cách, 6 đảng viên không đủ tư cách, 14 đảng viên lưu đảng để giáo dục và 3 người đưa ra khỏi Đảng. Công tác phát triển nhìn chung là chậm và trì trệ. Trong số 35 cơ sở đảng, chỉ có 9 cơ sở đảng  kết nạp được 12 đảng viên, số còn lại không kết nạp được đảng viên mới nào. Nhiều cơ sở đảng sinh hoạt không đều. Một số đảng viên 3-4 tháng chưa đóng đảng phí.

Cơ quan chính quyền cấp xã hoạt động yếu, chưa làm đúng chức năng quản lý nhà nước. Cán bộ phụ trách xã thiếu quá nhiều.

Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc có nhiều tiến bộ. Đã củng cố được tổ chức Mặt trận ở 9 xã gồm 121 tổ phụ lão và 8/12 ban Mặt trận xã hoạt động tốt. Các cụ đã tham gia vận động phong trào toàn dân đoàn kết, nâng cao cảnh giác để không mắc vào âm mưu tuyên truyền của kẻ địch.

Công tác hoạt động đoàn có nhiều tiến bộ. Năm 1978, toàn huyện có 17 chi đoàn cấp xã và 8 chi đoàn cơ quan trực thuộc với 1.576 đoàn viên. Các cơ sở đoàn đã giới thiệu
22 đoàn viên ưu tú theo học lớp đối tượng Đảng.

Công tác tuyển quân được đẩy mạnh. Đã có 2.164 thanh niên lên đường nhập ngũ, vượt chỉ tiêu 7%. Trong số này có 37 đoàn viên, 4 đảng viên.

Phụ nữ có nhiều hình thức vận động chị em tham gia sản xuất, lập tổ cứu thương. Trong quá trình hoạt động, xuất hiện 1 chi hội tiên tiến, 7 chi hội khá, 8 chi hội trung bình. Chỉ còn 1 chi hội kém.

Công tác hậu phương quân đội luôn được chú trọng. Toàn huyện có 31 đồng chí thương binh (5 thương binh thời kỳ chống Pháp) và 82 gia đình liệt sĩ (30 gia đình liệt sĩ thời kỳ chống Pháp) với 30 ông bố, 47 bà mẹ, 12 vợ và 44 con liệt sĩ. Huyện đã quan tâm đặc biệt đến đời sống vật chất và tinh thần đối với anh em thương binh và gia đình liệt sĩ. Đã trợ cấp 200 tấn lương thực cho 1.700 hộ trong huyện, trong đó có 90 hộ thương binh, liệt sĩ và 110 bộ đội phục viên; trợ cấp mức 600đ00 cho 12 trường hợp; cấp chăn và áo chống rét cho 1.552 hộ gồm 4.318 khẩu (2.415 chiếc chăn, 2.658 chiếc áo trị giá 40.372đ).

II- VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN GIỚI VỪA SẢN XUẤT

Song song với sự phá hoại của tập đoàn phản động Pôn Pốt ở biên giới tây nam của Tổ quốc, biên giới phía Bắc cũng trở nên căng thẳng. Đối với những địa bàn nằm sát biên giới Việt – Trung, tình hình càng trở nên nghiêm trọng.

Từ mùa xuân năm 1978, vấn đề người Hoa đã trở nên căng thẳng tại Xín Mần. Đêm 28-5-1978, người Hoa ở xã Xín Mần ồ ạt chạy sang Trung Quốc do Ly Ngán Dùng cầm đầu. Sau ngày đó, với một thời gian dài, người Hoa ở Bản Máy, Bản Pắng, mà chủ yếu là ở xã Xín Mần, họ cứ đi đi về về, gây tình hình lộn xộn. Mặc dù ta kiên trì vận động họ ổn định nhưng không có kết quả. Sau khi ta có chủ trương điều chuyển họ về tuyến sau, xã Xín Mần là 1 xã duy nhất chỉ có dân tộc Hoa, hơn 300 hộ chạy sang bên kia biên giới, chỉ có 2 hộ chấp hành sự điều chuyển của ta đi về tuyến sau. Trong số đó có 15 đảng viên, một cán bộ thoát ly, một phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện, một bí thư chi bộ, một chủ tịch xã Xín Mần. Trước tình hình đó, Huyện ủy ra quyết định số 13 ngày 15/1/1979 về giải tán chi bộ xã Xín Mần.

Trong lúc ta đang tập trung vận động người Hoa tại địa phương thì một bộ phận người Hoa ở Bắc Hà (Lào Cai) đi Trung Quốc qua Xín Mần và họ dừng lại trên đất của ta ở Mốc 3 (nay là Mốc 188), ta lại tập trung vận động họ quay trở lại, nhưng sau hơn 1 tuần thuyết phục, cuối cùng họ chạy sang bên kia.

Nhận rõ âm mưu của kẻ thù, từ huyện đến các xã đã thành lập các Ban chỉ huy quân sự do đồng chí Bí thư Huyện ủy và chi bộ xã trực tiếp làm, chính trị viên. Các đơn vị tự vệ và lực lượng vũ trang đã khẩn trương huấn luyện, nâng cao kỹ thuật, trang bị vũ khí, đóng chốt những nơi theo kế hoạch đã định, sẵn sàng chiến đấu.

Ngày 2-8-1978, huyện thành lập Tiểu đoàn 7 chủ lực gồm 4 đại đội, trong đó có 1 đại đội hỏa lực, 2 trung đội thông tin, 1 tiểu đội trinh sát. Đồng thời thành lập trung đội dân quân cơ động ở các xã. Mỗi xã thành lập 1 trung đội vận tải gồm 30 ngựa thồ. Huyện còn thành lập Tiểu đoàn lâm trường mà hầu hết là con em của Phong Châu (Vĩnh Phú) đã kề vai sát cánh cùng với quân và dân huyện Xín Mần xây dựng và bảo vệ biên cương của Tổ quốc. Tự vệ cơ quan được biên chế thành tiểu đoàn.

Phương án tác chiến tại chỗ và cơ động được các xã xây dựng có luyện tập quân sự, báo động sẵn sàng chiến đấu. Nhân dân đã đào nhiều hầm hào, xây dựng các chốt để tránh pháo địch. Huyện còn tổ chức nơi cất giấu tài liệu, phát động chiến dịch làm chông, cắm chông dọc biên giới. Trên một đoạn dài 48 km đã cắm được 50 vạn cây chông.

 Đến cuối năm 1978, địch đã kích động lôi kéo thêm 180 hộ người H’mông ở Sì Khá Lá, Bản Phố chạy sang Trung Quốc mang theo 17 khẩu súng, trong số này có 7 đảng viên. Để đối phó với âm mưu thủ đoạn mới của địch, huyện đã kịp thời chuyển 235 hộ với 1.536 khẩu người Hoa về Bắc Quang, và Hàm Yên. Công tác làm trong sạch địa bàn, ngăn chặn âm mưu bạo loạn của địch được tăng cường. Lực lượng vũ trang cũng phối hợp với địa phương tổ chức tiếp tục cắm chông, gài mìn, kiểm tra canh gác, bắt thám báo biệt kích.

Vào thời điểm này, toàn huyện có 32 cơ sở đảng với 608 đảng viên gồm 8 dân tộc (Nùng, Tày, La Chí, Mông, Dao, Phù Lá, Hoa và Kinh). Do sự kích động và xuyên tạc của kẻ địch, gây ra các vụ “nạn kiều” đã lôi kéo nhiều đảng viên là người Hoa, Mông chạy sang Trung Quốc, khiến cho có cơ sở đảng phải giải tán.

Thi hành Quyết định của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tuyên, Đảng bộ huyện đã thành lập chi bộ mới ở xã Xín Mần lấy tên là “chi bộ đoàn cán bộ tăng cường Xín Mần” và hai Đảng ủy Quân sự, Lâm trường. Phong trào thanh niên hai xã Bản Máy, Bản Pắng được Trung ương Đoàn tặng cờ “Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc”.

Bước vào đầu năm 1979, kẻ địch ngày càng gây tình hình căng thẳng ở biên giới, đe dọa an ninh và tính mạng của nhân dân. Đảng bộ đã kiên trì thuyết phục nhân dân trong huyện chuyển từ thời bình sang thời chiến. Là một huyện có 5 xã nằm trên tuyến biên giới tình hình càng trở nên khó khăn hơn, nhất là trong việc thực hiện các mục tiêu về kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh, quốc phòng. Đường xá đi lại hết sức khó khăn, lực lượng lao động lại bị huy động vào việc đào hầm hào, xây dựng tuyến quốc phòng phía trước). Lực lượng trẻ khỏe được điều động lên các điểm chốt trực chiến sẵn sàng chiến đấu.

Đầu tháng 2-1979, phía bên kia biên giới đã tập trung 11 quân đoàn áp sát biên giới phía Bắc, chuẩn bị đánh lớn vào Việt Nam. Tại Xín Mần, địch còn dùng những người Hoa vốn từng sinh sống ở huyện đã chạy sang Trung Quốc trong các vụ nạn kiều, trở lại địa phương lôi kéo, gây hoang mang làm rối loạn kinh tế và tình hình trị an. Nhiều người Hoa còn bị đẩy trở lại khiến cho nhân dân vùng biên giới của huyện không yên tâm sản xuất.

Ngày 17-2-1979, hơn 60.000 quân Trung Quốc đã nổ súng tiến vào đánh chiếm nước ta trên toàn tuyến biên giới phía Bắc dài 1400 km. Địch đã huy động vào chiến dịch này 9 quân đoàn bộ binh thuộc nhiều quân khu, hơn 20 sư đoàn bộ binh độc lập - trong đó có sư đoàn biệt kích chuyên đánh ở vùng rừng núi mang tên là Sơn cước, gần 600 xe tăng và xe bọc thép, hàng ngàn khẩu pháo…

Trong hai ngày 6 và 7-3-1979, địch dùng 1 trung đoàn bộ binh có pháo lớn yểm trợ đánh vào Bản Máy, Bản Pắng. Sau 2 ngày đánh trả quyết liệt vì địch đông hơn ta nhiều lần, ngày 8-3-1979, địch chiếm được Bản Máy, Bản Pắng. Trong trận này, kho lương thực, cửa hàng thương nghiệp Bản Máy bị phá hủy hoàn toàn, thiệt hại 25 tấn lương thực và nhiều tài sản khác. Ta bị hy sinh 71 người. Suốt trong thời gian 10 ngày, lực lượng vũ trang của ta đã tiêu diệt nhiều tên địch. Ngày 18-3-1979, hai xã này được giải phóng. Cuộc chiến ở địa phương vẫn diễn ra dai dẳng, không kém phần gay gắt. Âm mưu, thủ đoạn của kẻ địch ngày càng thâm độc.

Nhằm đối phó với những diễn biến xấu có thể xảy ra, tháng 5-1979, Tiểu đoàn 11 huyện Yên Sơn được điều động tăng cường cho Xín Mần. Đơn vị đã cử Đại đội 1 dừng chân ở Hồ Séo Chải chốt giữ đồi Yên Ngựa (Bãi Cháy – Chí Cà) đối diện với Mốc 3 (nay là Mốc 188); Đại đội 2 đóng ở xã Nàn Ma; Đại đội 3 ở núi  Gia Long; Đại đội 4 ở xã Xín Mần.

Ngày 6-5-1979, huyện thành lập 3 đoàn ngựa thồ chuyên nghiệp gồm 100 ngựa (Bản Díu 40 con, 20 lao động; Cốc Pài 30 con, 15 lao động; Chế Là 30 con ngựa, 15 lao động). Đồng thời, tại 9 xã (Bản Phùng, Bản Ngò, Thèn Phàng, Nàn Ma, Nấm Dẩn, Tả Nhìu, Cốc Rế, Thu Tà, Ngán Chiên) thành lập 9 đoàn ngựa thồ chủ lực, mỗi đoàn 20 ngựa và 20 lao động chủ lực. Toàn bộ lực lượng trên đều do Ủy ban nhân dân các xã điều động khi có chiến sự xảy ra nhằm đảm bảo công việc trong thời gian ngắn nhất.

Đứng trước những diễn biến mới của tình hình, Đảng bộ huyện Xín Mần đã chỉ rõ nhiệm vụ tiếp tục giáo dục toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thấy rõ âm mưu của kẻ địch. Phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và quyết tâm đánh thắng địch ngay từ trận đầu tại biên giới. Xây dựng hệ tư tưởng vững mạnh, phát huy tinh thần quân với dân một ý chí, mỗi người dân là một chiến sĩ thực hiện khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”. Xây dựng trận địa kiên cố vững chắc, giữ thế trận đảm bảo lực lượng an toàn. Bất cứ lúc nào quân và dân trong huyện cũng phải đứng trên thế tấn công địch, làm chủ đất đai để tiêu diệt địch, luôn giữ vững trật tự trị an, đảm bảo an toàn xã hội.

Đây là những định hướng đúng của Đảng bộ Xín Mần vì kẻ thù vẫn ngày càng tăng cường ém sát biên giới, thường xuyên nã cối khống chế điểm cao và chốt 1678, các hợp tác xã Bản Phố, Sì Khá Lá, Ma Lì Sán, Chí Cà, Pà Vầy Sủ và nhiều lần họ tiến công bằng bộ binh sang ta.

Trước tình hình đó, tháng 11-1979, ta tập kích chốt Mốc 3 (nay  là mốc 188). Sau 30 phút giao chiến, trận đánh đã kết thúc nhanh gọn. Ta đã tiêu diệt 21 tên địch, thu 1 súng 12ly7, 1 súng trung liên RLPĐ, 4 khẩu AK, 1 đài, 1 loa. Quân ta đã rút về Bãi Cháy an toàn. Đến 8 giờ sáng hôm sau, địch mới phản ứng bằng 12ly7, nã hàng trăm quả pháo vào Bãi Cháy, tổ chức tập kích nhiều lần nhưng đều bị đánh bật trở lại.

Nhìn chung, ta vẫn còn nhiều lúng túng khi địch lấn chiếm đất đai hoặc nhen nhóm gây bạo loạn. Hệ thống công sự, hầm hào ở các xã còn sơ sài, chưa vững chắc. Việc quản lý giữ gìn trang thiết bị, vũ khí chưa tốt.

Tuy còn những khuyết điểm trên nhưng tình hình trật tự trị an, năm 1979, tại Xín Mần vẫn được giữ vững. Ta đã xử lý 32 vụ, trong đó có 8 vụ hình sự, phạt vi cảnh 8 vụ, kiểm điểm 15 vụ và dân sự 1 vụ. Nhân dân đã làm được 350 hầm chữ A, 89 hầm mái bằng, 73 hầm đổ đất, 2.749 hố chiến đấu và 74.533 mét hào với số lượng đất đá xây đắp là 113.664 m3. Huyện đã thiết kế 2 sở chỉ huy phía trước.

Các ngành sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, giao thông, giáo dục, thu mua…trong các tình huống khó khăn phức tạp, kể cả lúc chiến sự xảy ra vẫn hoạt động. Có những cơ sở bị địch đánh phá, dân phải đi sơ tán khi trở về đã sản xuất kịp thời vụ. Ngành tiểu thủ công nghiệp khi các thợ người Hoa có tay nghề cao bỏ chạy đã chuyển hướng sang sản xuất lưỡi cày phục vụ cho sản xuất. Ngành giao thông vừa bảo đảm vận chuyển hàng hóa vừa phục vụ chiến đấu một cách kịp thời.

Sáu tháng đầu năm 1979, mặc dù chiến sự xảy ra ác liệt nhưng toàn huyện vẫn cấy được 200,4 ha lúa xuân, thu hoạch 438 tấn; ngô tăng vụ xuống ruộng được 427,6 ha, thu hoạch 299 tấn; đậu tương trồng 231,8 ha, thu hoạch 60 tấn. Lúa mùa cấy được 1.110,3 ha bằng 74% kế hoạch; ngô chính vụ trồng 1.016,7 ha (89,4%), sắn được 168 ha (58,7%). Đàn trâu bò chỉ còn 61.000 con giảm nhiều so với năm trước. Đàn lợn giảm 2.850 con, đàn ngựa giảm 990 con, đàn dê giảm 802 con.

Hợp tác xã Tả Nhìu mỗi tháng vẫn bảo đảm bình quân lương thực từ 21-22 kg.

Số học sinh chỉ còn 4.909/7.795 em đi học do địch bắn phá ác liệt ở các xã biên giới, nhiều học sinh phải theo gia đình di chuyển vào nội địa.

Để kịp thời củng cố lại tình hình tổ chức và sản xuất ở địa phương sau khi chiến sự xảy ra, ngày 27-8-1979, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Xín Mần lần thứ VIII đã khai mạc tại Cốc Rế, có 88 đại biểu tham dự. Sau khi đã kiểm điểm lại các mặt lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ trong nhiệm kỳ qua, Đại hội đã đề ra một số chỉ tiêu cho năm 1980 như sau:

- Tổng sản lượng lương thực (thóc và màu) đạt 7.000 tấn, bình quân đầu người 250 kg/năm.

- Chăn nuôi: đàn trâu 5.940 con, đàn bò 660 con, đàn ngựa 7.850 con.

- Đậu tương đạt 400 tấn.

- Trồng rừng 1.000 ha.

- Giữ vững hệ thống trường cấp I và cấp II, duy trì số học sinh đến lớp.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa VIII gồm 27 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 7 ủy viên, do đồng chí Mông Văn Ấn làm Bí thư.

Kết thúc năm 1979, thành tựu to lớn nhất của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần là nhận thức và chỉ đạo một cách hiệu quả 2 nhiệm vụ sản xuất và chiến đấu, nhờ đó mà đạt được những kết quả đáng kể. Tổng diện tích gieo trồng vẫn đạt được 4.505,19 ha, sản lượng lương thực quy ra thóc là 5.649 tấn, năng suất lúa mùa tới 23,8 tạ/ha. Đặc biệt cây lúa vượt kế hoạch cả diện tích và sản lượng (2.009,3 ha = 108,66% kế hoạch; 4.366,9 tấn = 107,8% kế hoạch). Các xã Cốc Rế, Tả Nhìu, Bản Díu, Bản Phùng là những đơn vị có năng suất cao.

Thủ công nghiệp sản xuất được 2.160 lưỡi cày. Đã vận chuyển bằng sức người và sức ngựa 695,1 tấn hàng, đạt 239,72% kế hoạch và 2.530 tấn/km đạt 427,9% kế hoạch.

Do tình hình biên giới vẫn tiếp tục căng thẳng, kẻ địch lại thường xuyên đe dọa, khiêu khích khiến cho nhân dân phải chạy đi, chạy lại nhiều lần, nhất là ở 5 xã biên giới. Một số hợp tác xã bỏ sản xuất hoặc cấy cày không kịp thời vụ, chăm sóc kém nhất là vụ đông-xuân 1979 - 1980. Thêm vào đó, thời tiết lại khắc nghiệt, nắng hạn kéo dài nên nạn đói đã trở nên nghiêm trọng. Đứng trước thực tế khó khăn đó, Đảng bộ Xín Mần đã kịp thời điều chuyển số lương thực do Ủy ban nhân dân tỉnh cấp cho 2 xã Pà Vầy Sủ và Chí Cà là 31.550kg, để cấp cho các xã Nàn Sỉn, Bản Máy, Bản Pắng số lượng là 22.718kg. Trên thực tế số đã cấp phát chỉ giải quyết được một phần vì tính đến tháng 3-1980 có 620 hộ với 3.750 người cần được cứu đói. Nếu mỗi khẩu cần trợ cấp 7 kg/tháng trong 4 tháng thì số lương thực cần tới 105.308 kg. Đây mới tính 5 xã vùng biên, chưa tính đến 12 xã nội địa cũng thiếu đói nhiều.

Đảng bộ và Ủy ban nhân dân huyện đã phát động đợt quyên góp giúp đỡ đồng bào biên giới với tinh thần “nhường cơm xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”. Trong một thời gian ngắn đã có 17 cơ quan, 8 hợp tác xã và nhiều cá nhân đóng góp được 625 kg thóc. Các xã Tả Nhìu, Cốc Pài đã động viên nhân dân tham gia đóng góp tích cực.

Trong tình hình đó, tình hình biên giới vẫn hết sức nóng bỏng.

Từ ngày 15-9-1980 đến ngày 19-9-1980, lực lượng vũ trang của ta đã chiếm lĩnh chốt 1992, bố trí tại đây một lực lượng trực chiến gồm 95 người, đó là chưa kể 50 dân quân phục vụ gạo nước, đào giao thông hào.

Địch tìm mọi cách để chiếm lại vị trí đã mất. Từ ngày  30-9-1980 đến ngày 14-10-1980, ngày nào chúng cũng tập kích vào chốt 1992. Trung bình mỗi ngày chốt này phải chịu đựng từ 500 đến 1.000 quả đạn pháo các loại. Đạn pháo của kẻ thù đã cày xới, tàn phá khu vực này ngổn ngang.

Ngày 15-10-1980, địch dùng bộ binh chiếm lại chốt 1992. Chiều hôm đó, chúng còn pháo kích dữ dội vào khu vực huyện lỵ Cốc Pài và một số khu vực khác, làm cháy 2 khu nhà ở kho lương thực, phá hủy 190 tấn gạo. Cửa hàng thương nghiệp bị sập một nhà. Nhiều tài sàn có giá trị bị đốt cháy, một nữ nhân viên thương nghiệp bị hy sinh.

Trước tình hình diễn biến phức tạp, Ban Thường vụ Huyện ủy đã kịp thời đề ra các biện pháp nhằm ổn định tư tưởng cho cán bộ và nhân dân từ huyện đến xã; tiến hành kiểm tra lực lượng vũ trang và động viên tinh thần sẵn sàng chiến đấu; tổ chức sơ tán, củng cố hầm hào.

Trong công tác xây dựng Đảng, đã tiến hành 3 đợt phát Thẻ đảng viên cho 13/31 cơ sở đảng, số đảng viên được xét cấp Thẻ là 393 đồng chí và đã có 249 đồng chí được cấp Thẻ. Đã kết nạp được 47 đảng viên mới, phần lớn từ lực lượng đoàn viên và chuyển 12 đồng chí dự bị lên chính thức. Có 25 đảng viên bị xóa tên (12 trường hợp xin ra Đảng, 13 bỏ sinh hoạt).

Tháng 3-1981, Ban Thường vụ Huyện ủy đã họp phiên bất thường để nghiên cứu Mệnh lệnh chiến đấu của Quân khu và Nghị quyết của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hà Tuyên về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Ban Thường vụ Huyện ủy đã chỉ rõ trong những ngày này, kẻ địch đã cho chuyển quân, tăng cường lực lượng kể cả dân binh áp sát biên giới. Chúng đã tăng cường nhiều vũ khí tầm xa như H12, cối 12ly7, DKZ. Kẻ địch tăng cường khiêu khích ở biên giới bằng nhiều hình thức khác nhau (tung thám báo, biệt kích, thăm dò lực lượng quân sự và cách bố phòng của các lực lượng vũ trang của ta, móc nối bọn phản động nội địa của huyện nhằm phá hoại các cơ sở kinh tế, chính trị, tổ chức ám sát, bắt cóc cán bộ và thu thập tài liệu của ta).

Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Huyện ủy đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động từ thời bình sang thời chiến với các nội dung cụ thể nhằm tăng cường nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, củng cố công sự và trận địa vững chắc, tổ chức hỏa lực và bố trí hỏa lực, bảo đảm kho tàng vật chất, bảo đảm quân số chiến đấu và chất lượng chiến đấu.

Xín Mần là huyện biên giới ngày đêm giáp mặt với kẻ địch. Vì vậy nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, công tác an ninh chính trị, trật tự xã hội đã trở thành nhiệm vụ hàng đầu. Trong 3 năm qua (1979 - 1981), Đảng bộ đã thực hiện một cách nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đường lối của Đảng bằng nhiều biện pháp cụ thể và đã giành được những thắng lợi khả quan.

Đảng bộ đã mở nhiều đợt tuyên truyền để mọi người thấy rõ âm mưu của kẻ địch, chống xâm canh, móc nối và đe dọa gây rối: Đảng bộ đã động viên sức người, sức của với tinh thần tự lực tự cường, khai thác mọi tiềm năng của địa phương để sẵn sàng chiến đấu làm cho mối quan hệ phía trước với phía sau, tiền tuyến với hậu phương, quân với dân ngày càng gắn bó hơn, nhờ đó đã làm thất bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch. Quân và dân các xã dọc biên giới ngày đêm bám trụ, bám bản làng để sản xuất và chiến đấu, giữ vững độc lập chủ quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.

Đảng bộ đã tổ chức cho nhân dân các xã biên giới đi sơ tán, tổ chức lực lượng sản xuất, sẵn sàng chiến đấu tại chỗ. Các xã biên giới không những tự túc về lương thực mà bước đầu đã đóng góp được sản phẩm cho Nhà nước (Chí Cà, Bản Máy). Trong quá trình lãnh đạo, Đảng bộ đã tập trung cán bộ xuống cơ sở tổ chức thực hiện các phương án công tác, tận dụng đất đai và lao động hiện có, quay vòng thâm canh tăng vụ, mở rộng diện tích. Với quyết tâm bám đất bám làng bản, vừa sản xuất vừa chiến đấu, địa phương đã tự vươn lên để giải quyết cho được đời sống.

Năm 1981, tổng sản lượng lương thực toàn huyện đạt được 6.952, 33 tấn, đưa mức bình quân đầu người lên 270, 62 kg/năm. Đây là năm nhân dân địa phương không những sản xuất đủ ăn mà còn bán cho Nhà nước được 309,87 tấn lương thực.

Có được kết quả trên là do Đảng bộ đã khai thác được trí tuệ tập thể; vận dụng vào huyện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước sát thực tế, có chọn lọc. Đảng bộ đã chấp hành chế độ thỉnh thị báo cáo, xin ý kiến cấp trên; phản ánh trung thực những thuận lợi, khó khăn của địa phương với Đảng và Nhà nước, tranh thủ sự giúp đỡ chỉ đạo của cấp trên để động viên quân và dân địa phương vượt qua mọi khó khăn.

Trong 3 năm tiến hành nhiệm vụ vừa chiến đấu bảo vệ biên giới của Tổ quốc vừa sản xuất, Đảng bộ Xín Mần cũng còn nhiều thiếu sót và tồn tại. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân dân trong huyện chưa được tập trung cao độ. Vì vậy còn xuất hiện những nhận thức mơ hồ về âm mưu thủ đoạn của kẻ thù. Một số người còn thiếu cảnh giác. Chưa chú trọng đúng mức nhiệm vụ xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các đoàn thể, hợp tác xã.

Công tác xây dựng Đảng chưa tập trung vào việc củng cố cơ sở đảng để nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đảng viên và phát triển đảng viên mới. Còn thiếu kiểm tra đôn đốc, bổ khuyết kịp thời những vấn đề cụ thể trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng bộ. Chưa thực sự nhạy bén tiếp thu cái mới đặc biệt là trên lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý hành chính bằng pháp luật của Nhà nước. Việc xác định phương hướng làm giàu cho dân còn lúng túng, còn mang nặng tư tưởng ỷ lại vào cấp trên, chưa thật sự đề cao vai trò làm chủ của mình.

Tuy còn nhiều thiếu sót và tồn tại, nhưng qua 3 năm lãnh đạo nhiệm vụ vừa chiến đấu bảo vệ biên giới của Tổ quốc vừa sản xuất, chăm lo đến đời sống của nhân dân, Đảng bộ Xín Mần thực sự đã trưởng thành và ngày càng trở nên vững mạnh.

Trong suốt thời gian tồn tại của mình, các hợp tác xã nông nghiệp của huyện đã góp phần quan trọng từng bước thay đổi bộ mặt ở địa phương thông qua các phong trào khai hoang phục hóa, xây dựng công trình thủy lợi, phát triển đồng ruộng, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt các hợp tác xã nông nghiệp đã góp phần ổn định đời sống kinh tế, chính trị, xã hội trong những năm chiến tranh, góp phần xây dựng hậu phương vững mạnh, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến. Tuy nhiên, bước vào thập kỷ 80 mô hình hợp tác hóa theo phương thức tập thể hóa cùng với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp đã bộc lộ những yếu tố phi kinh tế của nó và rơi vào tình trạng khủng hoảng.

Đúng vào dịp này xuất hiện cơ chế khoán hộ. Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ra Thông báo 22 (21-10-1980) ghi nhận hiện tượng khoán hộ và cho phép làm thử ở một số địa phương. Trên cơ sở tổng kết đánh giá tình hình thực tiễn, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 100 (13-1-1981) chính thức quyết định chủ trương thực hiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động.

Với Chỉ thị 100, vai trò kinh tế hộ gia đình bước đầu được thừa nhận. Các hợp tác xã phải chuyển mạnh sang kinh doanh tổng hợp, xây dựng lại các định mức kinh tế - kỹ thuật, thực hiện hạch toán theo ngành và theo đội sản xuất. Chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã, các hộ nông dân cũng có sự thay đổi. Nghĩa vụ bán nông sản của nông dân cho Nhà nước được ổn định 5 năm; phần mua thêm ngoài nghĩa vụ được thực hiện theo giá thỏa thuận; chấp nhận việc nông dân được quyền tự do lưu thông nông sản còn lại theo giá thị trường…

Chỉ thị 100 đã khơi dậy một khí thế mới trong nông thôn, nông nghiệp. Đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần, đó là một luồng gió mới tạo nên không khí phấn khởi trong sản xuất và sẵn sàng chiến đấu.

Để tăng cường sức mạnh cho các xã biên giới, tại địa phương cũng diễn ra một vài thay đổi về các đơn vị hành chính. Theo Quyết định số 185-CP của Hội đồng Chính phủ ký ngày 14-5-1981, một số xã được điều chỉnh như sau:

- Sáp nhập xã Cốc Pài và xã Pà Vầy Sủ thành xã Pà Vầy Sủ.

- Sáp nhập xã Xín Mần và xã Thèn Phàng thành xã Xín Mần.

- Sáp nhập xã Bản Máy, Bản Pắng, Bản Phùng thành 1 xã Bản Máy.

- Tách xóm Sì Khá Lá của xã Pà Vầy Sủ sáp nhập vào xã Chí Cà.

- Tách các hợp tác xã Đông Chề, Thắng Lợi của xã Bản Phùng và hợp tác xã Sui Thầu của xã Bản Díu sáp nhập vào xã Nàn Sỉn.

Để kịp thời nắm bắt những chuyển biến mới trong sản xuất nông nghiệp và đề ra các giải pháp phù hợp với tình hình của địa phương vùng biên giới, ngày 9-10-1982, Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Xín Mần lần thứ IX đã được tiến hành. Đại hội đánh giá lại chặng đường vừa chiến đấu vừa sản xuất trong 3 năm (1979 - 1981), đề ra phương hướng cho những năm tiếp theo (1982 - 1985), nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ địch và ra sức phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhằm từng bước nâng cao đời sống cho nhân dân các dân tộc, làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước.

Một số chỉ tiêu chính được Đại hội thông qua:

Năm

Loại

1982

1983

1984

1985

Lương thực quy thóc

7.616 tấn

7.971 tấn

8.099 tấn

8.355 tấn

Đậu tương

320 -

320 -

320 -

320 -

Chè xô

15

15 -

15 -

15 -

Trâu

5.300 con

5.406 con

5.510 con

5.675 con

950 -

1.000 -

1.050 -

1.100 -

Ngựa

3.900 -

3.950 -

4.000 -

4.050 -

3.500 -

3.550 -

4.230 -

4.650 -

Gia cầm

100.000 -

130.000 -

150.000 -

180.000 -

Theo các chỉ tiêu trên, bình quân lương thực quy ra thóc trên một đầu người trong năm, giai đoạn từ năm 1982- 1985 đạt từ 250- 300 kg, đảm bảo tự trang trải được nhu cầu về ăn cho nhân dân trong toàn huyện.

Muốn đạt được các chỉ tiêu trên, Đảng bộ huyện Xín Mần phải thực hiện một cách nghiêm túc tinh thần Chỉ thị 100, tăng cường củng cố hợp tác xã, tiến hành khẩn trương việc khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, tập trung chỉ đạo khâu thâm canh tăng năng suất cây trồng và quay vòng đạt 82% diện tích ruộng cấy 2 vụ, nương 60% hai vụ bằng một lúa, một màu, một đặc sản và cây công nghiệp để có sản phẩm đổi lấy lương thực làm giàu cho địa phương.

Trồng 261ha rừng bảo vệ, khẩn trương phủ xanh đất trống, đồi núi trọc. Các ngành vật tư, thủy lợi, định canh, định cư, thủ công nghiệp, thương nghiệp, giao thông, bưu điện, văn hóa, giáo dục phải thực hiện tinh giản biên chế cho gọn nhẹ. Có quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về phẩm chất và năng lực để đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ mới đang đặt ra.

Các cơ quan nhà nước phát huy chức năng và hiệu lực quản lý nhà nước trong quản lý và điều hành. Củng cố và phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng; tăng cường công tác xây dựng Đảng và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Xín Mần đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ huyện khóa IX gồm 27 ủy viên chính thức, 2 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ gồm 9 ủy viên. Đồng chí Mông Văn Ấn được tái cử làm Bí thư Huyện ủy.

Để tiếp tục ổn định các đơn vị hành chính cơ sở, ngày 18-11-1983, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Quyết định số 136-QĐ/HĐBT chuyển Bản Máy từ huyện Xín Mần sáp nhập vào huyện Hoàng Su Phì; đồng thời đưa các xã Trung Thịnh, Nàng Đôn của Hoàng Su Phì, các xã Nà Chì, Quảng Nguyên, Khuôn Lùng của huyện Bắc Quang sáp nhập vào huyện Xín Mần. Kể từ đây, huyện Xín Mần đã có chiều sâu nội địa đáng kể hơn trước.

Trên cơ sở của việc hoạch định lại địa giới và các đơn vị hành chính, ngày 1-1-1984, huyện Xín Mần được phân vạch làm 3 tuyến:

- Tuyến 1 gồm các xã vùng biên giới, dân được ở lại có nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu bảo vệ cương giới của Tổ quốc.

- Tuyến 2 gồm 12 xã nội địa có nhiệm vụ vừa sản xuất vừa phục vụ chiến đấu, vận chuyển hàng hóa, vũ khí, lương thực, thực phẩm.

- Tuyến 3 gồm Nà Chì, Khuôn Lùng, Quảng Nguyên làm hậu cứ và nơi an toàn của huyện, có nhiệm vụ sản xuất, ổn định dân cư và chi viện cho tuyến 1 và tuyến 2.

Quá trình di chuyển dân cư từ các xã biên giới vào sâu trong nội địa để ổn định cuộc sống và sản xuất gặp rất nhiều khó khăn vì quan hệ anh em họ hàng của nhiều gia đình với bên kia biên giới. Nắm vững những trở ngại khách quan đó, Đảng bộ huyện Xín Mần đã chỉ đạo sát sao từ việc sàng lọc, lựa chọn những gia đình cốt cán ở lại, tổ chức chu đáo các đợt di chuyển từ biên giới vào nội địa. Trong tháng 12-1984, đã đưa được 101 hộ với 722 khẩu của Ma Dì Vảng, Sà Chải (Nàn Sỉn), xã Tả Nhìu, Chí Cà, Nàn Ma, Nấm Dẩn, Bản Ngò, Pà Vầy Sủ về xã Quảng Nguyên, Nà Chì, Khuôn Lùng và Hàm Yên (Tuyên Quang), Vô Điếm (Bắc Quang).

Nhờ sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ, công tác chuyển dân từ vùng biên giới vào sâu trong nội địa, đã diễn ra nhanh gọn trong một thời gian ngắn. Đó là thắng lợi cơ bản nhằm nhanh chóng ổn định đời sống cho nhân dân.

Song song với những việc làm kể trên, ngày 5-2-1985, Huyện ủy Xín Mần ra Chỉ thị “Tăng cường nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu đánh thắng địch trong mọi tình huống” nhắc nhở các ngành, các cấp và lực lượng vũ trang khẩn trương kiểm tra cơ sở, nắm chắc tình hình địch để sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng; chống lại tư tưởng chủ quan, ngại khó, hoang mang dao động; quyết tâm đánh địch và thắng địch trong mọi tình huống.

Sau một thời gian dài chuẩn bị, các cơ quan của huyện chính thức chuyển về làm việc ở địa điểm mới tại xã Nà Chì vào ngày 20-2-1985. Với gần 3 tuần di chuyển chưa có đường ô tô, sắp xếp, đến ngày 10-3-1985, các cơ quan ổn định và chính thức làm việc. Huyện ủy đã bắt tay tiến hành những công việc cần kíp trước mắt như thành lập ban chỉ đạo tiền phương đóng ở Cốc Pài; xây dựng bệnh viện tiền phương tại Km 26 để đảm bảo việc cấp cứu tại chỗ; huy động nhân lực làm con đường từ Cốc Pài về Nà Chì và con đường mới tiếp cận với tuyến 2 từ Km 26 qua Tả Nhìu, Chế Là, Nấm Dẩn, Nà Chì và làm đường Nà Chì nối với Quốc lộ 2 Bắc Quang.

Ngày 5-12-1985, quân địch từ bên kia biên giới đã pháo kích đánh sập cầu Cốc Pài, cắt đứt đường liên lạc giữa huyện Xín Mần với các vùng trong tỉnh. Đảng bộ đã nhanh chóng huy động các lực lượng ở Pà Vầy Sủ, Thèn Phàng, Cốc Pài và bộ đội nhanh chóng khôi phục giao thông. Chỉ trong 3 ngày đã hoàn thành cây cầu phao trên sông Chảy dài 32m bằng nguyên vật liệu của địa phương (18 cây mai, 100 cây thông) đảm bảo người, ngựa qua lại dễ dàng. Đồng thời, tỉnh còn huy động 96.500 công của các huyện Yên Sơn, Chiêm Hóa, Hàm Yên, Bắc Quang, Hoàng Su Phì hỗ trợ cho nên chỉ đến ngày 20-12-1985 đã thông xe trên tuyến Nà Chì – Cốc Pài, đảm bảo việc lưu thông giữa huyện với các tỉnh và trung ương được thông suốt. Các đoạn đường Nà Chì, Yên Bình, nối với Quốc lộ 2 được nâng cấp. Đường Chế Là – Quảng Nguyên dài 32 km được tu sửa lại. Hai cầu treo Chế Là, Nấm Dẩn cũng được gia cố cho chắc chắn thêm.

Trong công tác chỉ đạo sản xuất, Đảng bộ cũng đạt được một số thành tựu đáng kể và cũng còn nhiều tồn tại cần có giải pháp khắc phục.

Năm 1983, tình hình thời tiết diễn biến khá phức tạp. Đầu năm hạn hán kéo dài, cây trồng vụ xuân hầu hết bị khô héo dẫn đến tình trạng mất mùa. Kẻ địch lại thường xuyên quấy rối làm cho nhân dân không an tâm sản xuất. Nhờ có sự chỉ đạo và lãnh đạo chặt chẽ của Huyện ủy, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đặt ra đều xấp xỉ với kế hoạch. Tuy vậy, Huyện ủy cũng nhận thấy rằng biện pháp tổ chức sản xuất còn kém hiệu quả, công sức bỏ ra nhiều nhưng thu nhập không được bao nhiêu. Năng suất lao động còn quá thấp. Nhiều sản phẩm được sản xuất ra nhưng không quản lý được, nhất là ở các hợp tác xã tổ chức khoán trắng và thuộc loại yếu kém. Việc chỉ đạo kinh tế chưa đồng đều giữa trồng trọt với chăn nuôi, giữa nông nghiệp với lâm nghiệp và thủ công nghiệp. Những hiểu biết về điều kiện tự nhiên, đặc điểm xã hội của huyện chưa sâu sắc, do đó biện pháp đề ra thiếu chặt chẽ và còn nhiều bất cập. Chưa phát huy được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động trong việc xây dựng chỉ tiêu kế hoạch.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được vào năm 1984, Đảng bộ đã chú trọng đến công tác vận động quần chúng hăng hái thi đua trong sản xuất và sẵn sàng chiến đấu. Mặc dù phải đầu tư nhiều cho việc di chuyển dân ở vùng biên vào nội địa nhưng Đảng bộ vẫn chỉ đạo kịp thời phong trào ở địa phương. Thực hiện nội dung văn bản ký kết giao ước thi đua tại thị xã Hà Giang đầu tháng 3-1984 và tinh thần Hội nghị giao ước thi đua 18 xã với khối cơ quan ban, ngành trong toàn huyện phong trào thi đua sản xuất và sẵn sàng chiến đấu được dấy lên hết sức sôi nổi. Đã có 4.321 cá nhân đạt danh hiệu lao động tiên tiến, 6 đơn vị lao động xã hội chủ nghĩa, 3 chiến sĩ thi đua được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Bằng khen và 6 đơn vị đạt danh hiệu Quyết thắng. Qua phân loại, có
41 hợp tác xã được xếp loại khá chiếm 37,9%, 46 hợp tác xã trung bình chiếm 42,5% và 21 hợp tác xã yếu kém chiếm 19,6%. Các xã Cốc Rế, Tả Nhìu, Bản Díu, Thu Tà, Nấm Dẩn, Bản Ngò, Nàn Sỉn, Chí Cà, Nàn Ma có phong trào thi đua sôi nổi.

Năm 1985 là năm cuối cùng thực hiện kế hoạch 5 năm (1981- 1985) cũng là năm kẻ địch bắn phá vào nhiều điểm cao và nội địa của huyện gây nhiều thiệt hại về người và của, tạo ra tình trạng căng thẳng mất ổn định ở vùng biên giới. Đảng bộ huyện Xín Mần đã tập trung lãnh đạo quân dân trong huyện phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ để tạo nên sức mạnh tổng hợp giáng trả địch trong mọi tình huống; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đẩy mạnh sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định đời sống, giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội.

Do tình hình thời tiết bất lợi, đầu năm rét đậm kéo dài khi bước vào vụ mùa lại gặp nắng hạn, khi thu hoạch lại bị mưa nhiều gây ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ sản xuất, năng suất và sản lượng. Tuy nhiên, tổng sản lượng lương thực của năm 1985 vẫn đạt 10.417 tấn, năng suất đạt 26,12 tạ/ha; bình quân nhân khẩu là 286,98 kg/năm. Các chỉ tiêu khác với nhà nước cũng đạt khá, như lợn hơi 42.000 kg, trâu hơi 9.866 kg, đậu tương 75.960 kg, chè xô 73.653 kg và làm nghĩa vụ lương thực được 500 tấn.

Tổng đàn trâu lên tới 8.145 con, đàn bò 1.360 con, đàn ngựa 4.227 con, đàn lợn 13.019 con, đàn dê 15.102 con. Nhìn chung đều tăng nhiều so với chỉ tiêu đặt ra.

Các hợp tác xã đã tiến hành khoán sản phẩm theo tinh thần Chỉ thị 100 một cách triệt để. Toàn huyện có 107 hợp tác xã nông nghiệp, phân loại có 30 hợp tác xã loại khá (28%), 53 hợp tác xã loại trung bình (49,5%) và 22 hợp tác xã loại kém (22,5%).

Ngành tài chính, ngân hàng đã quản lý tốt ngân sách để phục vụ tốt cho sản xuất và chiến đấu; làm tốt công tác thu đổi tiền; tận thu các nguồn thu khác trên địa bàn.

Ngành giao thông đã huy động được nhiều ngày công và thực hiện phương châm “nhà nước và nhân dân cùng làm” duy trì, nâng cấp được nhiều tuyến giao thông quan trọng. Ngành bưu điện đã kéo xong đường dây đi các cơ quan ở huyện lỵ mới. Tháng 11-1985, thi công xong đường điện thoại từ Nà Chì về Cốc Pài dài 41km, vượt thời gian 10 ngày. Ngành xây dựng cơ bản làm xong 60 ngôi nhà cho các cơ quan cấp huyện ở địa điểm mới.

Công tác giáo dục có phần giảm sút. Năm học 1984- 1985, toàn huyện có 21 trường cấp I với 223 giáo viên, 130 lớp và 2.500 học sinh. Bước vào học kỳ II của niên học này, chỉ còn 11 l lớp với 2.337 học sinh.

Công tác y tế đáp ứng được những yêu cầu đặt ra. Sau khi lập xong 2 bệnh viện khu vực, đã khám, chữa bệnh được 25.910 lượt người, thực hiện kế hoạch hóa gia đình cho nhiều chị em, thường xuyên làm tốt công tác vệ sinh phòng bệnh. Đã kịp thời trợ cấp 514 mét vải cho 169 hộ với 835 khẩu cùng 4.000 kg gạo cho 115 hộ bị đói.

Ngành thủ công nghiệp đảm bảo sản xuất được 66% kế hoạch về lưỡi cày, 100% cuốc, thuổng. Cung cấp điện thắp sáng đạt 56,64% kế hoạch .

Công tác xây dựng Đảng được tăng cường. Tháng 4-1985, Đảng bộ đã chỉ đạo các cơ sở đảng tiến hành đại hội, kiện toàn cấp ủy và chi bộ. Trung tuần tháng 9-1985, lại tiến hành cuộc vận động thực hiện Chỉ thị 33 của Trung ương Đảng “về công tác bảo vệ Đảng gắn với bảo vệ an ninh Tổ quốc”, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 8 “về giá, lương, tiền”.

Trong năm 1985, Đảng bộ còn ra nhiều chỉ thị để thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước; mở 6 lớp cảm tình đảng cho 428 đối tượng của 29/33 cơ sở đảng. Đã kết nạp được 30 đảng viên mới. Thi hành kỷ luật 13 người (2 xóa tên, 2 cảnh cáo, 4 lưu đảng, 5 khai trừ, cách chức 01).

Các đoàn thể quần chúng, Mặt trận đã hoạt động có nền nếp. Đoàn Thanh niên của huyện đã phát động phong trào thi đua lao động sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu, hoạt động văn hóa và thể thao, giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng. Hội Phụ nữ hoạt động với khẩu hiệu “người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, đã vận động chị em ủng hộ bộ đội được 685 kg thịt lợn, 200 lít rượu, 300 kg thịt gà, 7.880 chiếc bánh trưng, xây dựng được 2.600 vườn rau điểm tựa nuôi quân. Hội đã xây dựng được 60 bà mẹ chiến sĩ và vận động được 577 chị em tham gia phong trào sinh đẻ có kế hoạch.

Mặc dù còn chịu nhiều hậu quả của cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch tại vùng biên giới, mặc dù Khoán 100 chưa phải là mô hình mới về tổ chức và quản lý nông nghiệp mà chỉ là cải tiến hình thức khoán, chuyển từ khoán việc sang khoán sản phẩm, từ khoán đội đến khoán hộ gia đình nhưng đã tỏ rõ ưu thế của mình. Nó đã bước đầu khôi phục quyền tự chủ trong sử dụng ruộng đất vào lao động của hộ xã viên, gắn lao động với đất đai, làm cho người lao động quan tâm hơn đến kết quả cuối cùng. Nó tuy là giải pháp tình thế nhưng là sự đột phá đầu tiên vào cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, là “chìa khóa vàng” để mở ra một thời kỳ mới của sản xuất nông,  lâm nghiệp ở địa phương.

Thực hiện khoán 10, Đảng bộ huyện Xín Mần đã xác định rõ ràng cơ cấu kinh tế của huyện là nông, lâm, công nghiệp. Trong 3 năm kể từ năm 1983 đến năm 1985, Đảng bộ đã tập trung nhiều công sức vào mặt trận nông nghiệp; đề ra mục tiêu cụ thể phấn đấu từng bước cho từng vụ, từng năm để giải quyết vấn đề lương thực trong phạm vi toàn huyện. Các cây đậu tương, chè, bông, mía giữ vững và phát triển tốt. Bình quân mỗi hộ đã có 1,5 con trâu; 2,5 con lợn và gần 1 con bò, ngựa.

Trong lâm nghiệp, Đảng bộ đã chỉ đạo chặt chẽ việc giao đất, giao rừng cho các hộ xã viên chăm sóc và bảo vệ. Trong 3 năm (1983 - 1985), toàn huyện đã trồng được 2.070 ha thông, xa mộc, trẩu, chè. Lâm luật được phổ biến rộng rãi. Đã xử lý nghiêm minh các vụ làm cháy rừng, phát nương bừa bãi bằng nhiều hình thức, kể cả đưa ra truy tố trước pháp luật và buộc phải bồi thường các thiệt hại cho Nhà nước.

Quan hệ sản xuất tập thể được củng cố theo nội dung Chỉ thị 100 căn cứ vào thực tế phong trào hợp tác hóa của huyện. Đã định ra được những hình thức khoán phù hợp với trình độ, năng lực quản lý của cán bộ từng vùng khác nhau. Đối với các ngành xây dựng cơ bản, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, xưởng chè và các ngành nghề khác ở hợp tác xã, Đảng bộ đã chỉ ra nội dung củng cố nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế của huyện. Nhìn chung, kinh tế tập thể quốc doanh vẫn chiếm ưu thế chi phối mọi mặt đời sống xã hội trong địa bàn huyện.

Đồng thời với những thành tựu đã đạt được sau Khoán 100 trong sản xuất nông, lâm nghiệp, Đảng bộ còn tập trung chỉ đạo mở mang hệ thống giao thông (làm mới và sửa chữa các tuyến đường ô tô, xây dựng cầu cống), thủy lợi, các công trình quốc phòng, đường dây điện thoại, xây dựng lán trại cho đồng bào vùng biên giới chuyển vào nội địa, chuyển huyện lỵ từ Cốc Pài về Nà Chì cùng nhiều công trình khác của hợp tác xã. Mỗi lao động trong huyện đã đóng góp bình quân 50 ngày công.

Công tác lưu thông phân phối trong những năm 1983- 1985 tương đối ổn định. Năm 1985 gặp khó khăn lớn trong lúc huyện chuyển về địa điểm mới, đường ô tô hai đầu chưa thông, cầu Cốc Pài bị địch phá hỏng nên hàng hóa phục vụ nhân dân và việc khai thác nguồn hàng của địa phương theo kế hoạch bị hủy bỏ, cơ sở mới chưa có. Đứng trước những khó khăn đó, Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo thông đường đúng thời gian, xác định nơi tập kết hàng và thu mua hàng trong nhân dân, thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước; đã chỉ đạo chặt chẽ hợp tác xã mua bán – coi đây là nơi đưa hàng trực tiếp về tận tay người tiêu dùng và khai thác nguồn hàng ở địa phương. Nhờ có những biện pháp tích cực đó, trong năm 1985 các mặt hàng thiết yếu đã đáp ứng được nhu cầu đời sống của nhân dân, cán bộ và lực lượng vũ trang cũng như phục vụ đắc lực cho sản xuất.

Là một huyện có nhiều dân tộc, phong tục tập quán khác nhau, kẻ địch lại luôn phá hoại trên nhiều lĩnh vực nhưng công tác văn hóa, xã hội vẫn được giữ vững.

Công tác quốc phòng trong 3 năm (1983 - 1985) vẫn được giữ vững. Các lực lượng vũ trang đã hợp đồng chiến đấu dũng cảm, liên tục giáng trả địch những đòn đích đáng, hiệu suất chiến đấu cao. Với trách nhiệm bảo vệ Đảng, chính quyền và tài sản của nhân dân, địa phương đã từng bước xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Hằng năm đã huy động một số lượng nhân lực khá lớn phục vụ cho chiến đấu, vận chuyển và xây dựng các công trình quốc phòng theo nhiệm vụ chiến đấu của một huyện biên giới. Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo với nhiều biện pháp để củng cố lực lượng vũ trang cả về số lượng và chất lượng. Chỉ tiêu tuyển quân hằng năm đều đạt và vượt mức trên giao. Các lực lượng vũ trang tổ chức huấn luyện theo định kỳ đạt kết quả tốt, luôn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu và đối phó với mọi tình huống khác nhau.

Ngoài việc pháo kích vào các điểm chốt, chúng còn bắn phá vào các khu dân cư của ta, điển hình tháng 5-1985, địch đã bắn hàng trăm quả pháo vào Chúng Chải (Nàn Sỉn) làm chết 1 người, bị thương 1 người, chết nhiều trâu bò, cháy 12 nóc nhà và làm hư hỏng nhiều nhà khác; đến tháng 7-1985, chúng lại bắn vào Sà Chải (Nàn Sỉn) làm chết 2 người, hư hỏng nhiều nhà cửa; tháng 12-1985, chúng bắn vào xã Tả Nhìu làm chết 1 người và một số gia súc.

Trong quá trình chỉ đạo và lãnh đạo, Đảng bộ luôn luôn đề ra các biện pháp liên tục đấu tranh với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch; thực hiện các biện pháp chống vượt biên, không mua bán hàng Trung Quốc. Đồng thời, tổ chức lại các cụm dân cư ở các xã biên giới theo tinh thần vừa sản xuất vừa sẵn sàng chiến đấu, ổn định lâu dài đời sống nhân dân, từng bước sắp xếp và bố trí lại dân cư trên địa bàn huyện. Ở những xã đất rộng người thưa tổ chức tiếp nhận đồng bào vùng biên giới đến cư trú lâu dài, tiến hành điều chuyển số đối tượng thuộc diện đi khỏi địa bàn của huyện; nắm và kê khai nhân khẩu và hộ khẩu, rà soát lại các đối tượng, đấu tranh không khoan nhượng đối với các phần tử chống đối.

Kết thúc năm 1985, Đảng bộ huyện Xín Mần có 33 cơ sở đảng với 805 đảng viên. Năm 1983, có 27 chi, đảng bộ vững mạnh, 4 chi, đảng bộ khá, 14 chi, đảng bộ yếu kém. Năm 1985, chỉ còn 4 chi, đảng bộ yếu kém. Đảng bộ huyện Xín Mần đã tập trung xây dựng chi, đảng bộ theo nội dung của Chỉ thị 24 về xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Đã kết nạp được 200 đảng viên mới, trong đó có 19 nữ đảng viên, 180 đảng viên là người dân tộc, 195 trong lứa tuổi thanh niên và 4 đảng viên là công nhân. Số đảng viên bị xử lý kỷ luật lên tới 119 người (4 khiển trách, 5 cảnh cáo, 2 cách chức, 17 lưu đảng, 43 khai trừ, 48 ra đảng bằng hình thức khác).

Thông qua việc thực hiện Chỉ thị 33 về công tác bảo vệ đảng gắn với bảo vệ an ninh Tổ quốc và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, lấy nhiệm vụ chính trị làm thước đo về công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ đã nhận thức sâu sắc vai trò của các chi, đảng ủy và sự gương mẫu của đảng viên có tính quyết định đến mọi thắng lợi trong việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược trên địa bàn huyện. Đảng bộ đã có một số kinh nghiệm nhất định trong việc bố trí, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong điều kiện cụ thể của Xín Mần nên đã gây được lòng tin của quần chúng đối với Đảng.

Đảng bộ rất coi trọng việc củng cố chính quyền, đã phân công những đảng viên có phẩm chất, năng lực, am hiểu tình hình địa phương giữ các chức danh chủ chốt từ huyện đến xã; mạnh dạn thay thế những đồng chí không đảm đương nổi công việc và giải quyết chế độ cho các đồng chí đến tuổi về hưu. Sự lãnh đạo chồng chéo, vi phạm vào chức năng của chính quyền được dần dần khắc phục. Nhờ đó, vai trò của các cơ quan nhà nước ngày một nâng cao.

Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ đã xây dựng được nhiều cánh đồng thâm canh, đi đầu trong chiến đấu, lập được nhiều chiến công xuất sắc.

Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân đã tăng cường giáo dục giác ngộ, vận động hội viên khắc phục khó khăn, chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, lập được nhiều thành tích trong lao động và chiến đấu, phục vụ chiến đấu.

Chỉ thị 100 tạo ra cơ chế Khoán 100 đã làm cho xuất hiện lần đầu tiên ở Xín Mần trong vòng 3 năm liên tục (1983-1985) lương thực năm sau tăng hơn năm trước, bình quân mức ăn tính theo nhân khẩu cũng tăng dần, chăn nuôi phát triển và ổn định nhất là chăn nuôi gia đình. Nó đã thực sự tạo ra niềm tin và sức mạnh cho Đảng bộ trong thời gian nước sôi lửa bỏng này.

Kể từ khi kết thúc thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, Đảng bộ Xín Mần đã có một chặng đường 10 năm lịch sử, không một phút giây ngơi nghỉ. Máu xương của nhiều người con ưu tú lại đổ xuống. Kẻ thù lại gây nên bao tội ác chồng chất. Trong khói lửa của chiến tranh, trong gian khổ của thời bình chuyển sang thời chiến, những năm 1975- 1985, Xín Mần đã chịu đựng hàng vạn quả pháo bắn phá của địch. Trong khó khăn, gian khổ của cuộc chiến để bảo vệ từng tấc đất biên cương của Tổ quốc, Xín Mần luôn nhận được sự chi viện về người và của với sự động viên, cổ vũ của Trung ương, của tỉnh, của các huyện, đặc biệt là của huyện Yên Sơn kết nghĩa.

Đảng bộ Xín Mần đã phát huy cao độ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội để giành các thắng lợi to lớn trong chiến đấu và sản xuất. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Xín Mần đã viết nên những trang sử hết sức hào hùng, hết sức vẻ vang được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Nhì và Huân chương Chiến công hạng Nhất.

CHƯƠNG IV

CHI BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC CHẾ LÀ THỰC HIỆN CÔNG CUỘC  ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG
(1986-1995)

Kết thúc kế hoạch Nhà nước 5 năm (1981-1985), nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được một số thành tựu. Tuy nhiên, do cơ chế quản lý quan liêu bao cấp, việc thực hiện chính sách giá - lương - tiền (10/1985) cùng nhiều nguyên nhân khác đã đưa nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Lạm phát tăng vọt, sản xuất chưa đủ tiêu dùng, đời sống nhân dân mỗi ngày một giảm sút... Toàn đảng, toàn quân và toàn dân ta lại phải thường xuyên đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Trong khi đó, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp do Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu tan rã và xụp đổ.

Bước vào năm 1986, trong bối cảnh chung của đất nước, Chi bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là cũng như toàn Huyện Xín Mần đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Xuất phát điểm của kinh tế địa phương thấp, còn mang tính tự cung, tự cấp. Năng suất cây trồng, vật nuôi cũng như sử dụng đất đai và lao động để nâng cao hiệu quả kinh tế còn rất thấp. Công nghệ sản xuất lạc hậu. Kết cấu hạ tầng yếu kém. Nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu cải thiện đời sống nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp và hàng hóa cho xuất khẩu. Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa thoát khỏi độc canh và thuần nông. Chăn nuôi phát triển không mạnh. Lâm nghiệp nặng về khai thác, để lại hậu quả nặng nề cho hệ sinh thái, làm cạn kiệt tài nguyên.

Kinh tế hợp tác xã chưa có biện pháp tích cực để đổi mới tổ chức, phương hướng hoạt động và cơ chế quản lý. Kinh tế cá thể tư nhân chưa được khuyến khích phát triển. Chính sách ruộng đất chưa phù hợp, chưa giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp đất đai. Đời sống của nông dân, nhất là của đồng bào các dân tộc còn gặp quá nhiều khó khăn, mức sống vật chất, văn hóa còn thấp... Những nguyên nhân làm cho nền kinh tế của cả Huyện chậm phát triển đã được Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ X họp từ ngày 15-9 đến ngày 17/9/1986 chỉ rõ: Cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp có nhiều khiếm khuyết; bộ máy quản lý kinh tế còn bộc lộ nhiều hạn chế, hiệu quả thấp; trong chỉ đạo quản lý kinh tế - xã hội từ Huyện đến xã còn nhiều yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ.

Trên cơ sở nhận định, phân tích, nắm bắt một cách đầy đủ những khó khăn và đặc thù của huyện, Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ X đã tập trung thảo luận, phân tích để tìm ra quyết sách cho phương hướng 3 năm (1986 - 1988) phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương nhằm giải quyết được vấn đề lương thực, thực phẩm, củng cố quan hệ sản xuất, tạo ra nhiều nguồn hàng xuất khẩu, xây dựng một số cơ sở khoa học kỹ thuật vật chất thiết yếu trực tiếp đáp ứng và phục vụ cho sản xuất và đời sống, phát triển văn hóa, xã hội, đáp ứng kịp thời yêu cầu xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, giữ vững biên cương Tổ quốc.

Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI đã khẳng định bước ngoặt quan trọng trên con đường cách mạng nước ta: Đổi mới toàn diện về kinh tế - chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, mở ra một bước phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội nhấn mạnh sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội còn đề ra 3 chương trình kinh tế lớn về lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Quán triệt và thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng, thời kỳ này Tỉnh ủy và Huyện ủy cũng đề ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của địa phương.

Thực hiện chủ trương của Đảng và sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy, UBND Huyện Xín Mần, Chi ủy, ủy ban nhân dân xã Chế Là đã tìm mọi cách tháo gỡ khó khăn, xây dựng quyết tâm, tích cực triển khai thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Trên mặt trận sản xuất nông - lâm nghiệp, qua hơn 6 năm thực hiện khoán 100, thực tế ở Chế Là cho thấy công tác quản lý của hợp tác xã không theo kịp tình hình mới. Theo cơ chế khoán này, hộ xã viên được làm chủ ba khâu (gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch), năm khâu còn lại do HTX đảm nhận. Lúc đầu, động cơ vượt khoán đã kích thích các hộ đầu tư, thâm canh để thu phần sản phẩm vượt khoán. Song, trong quá trình thực hiện việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn trậm trễ, hệ thống dịch vụ nông nghiệp hiệu quả phục vụ thấp, việc cung ứng vật tư, giống mới, phân bón thuốc trừ sâu không kịp thời. Sản xuất tuy có phát triển nhưng tốc độ chậm, không đáp ứng được yêu cầu chung, tình trạng khê đọng sản phẩm trong khu vực xã viên còn nhiều, đời sống nhân dân còn bấp bênh. Như vậy, những kết quả thu được từ khoán 100 tỏ ra không vững vàng. Tình trạng đó không chỉ riêng ở Chế Là mà đó là tình trạng chung của cả nước. Đứng trước thực tế đó, Đảng ta lại tìm biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những hạn chế, bế tắc của việc thực hiện khoán 100, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý nông nghiệp, đưa nông nghiệp phát triển lên một bước.

Ngày 5 tháng 4 năm 1988, Bộ chính trị ra nghị quyết số 10-NQ/TW về “đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” còn gọi là nghị quyết 10 (khoán 10), đổi mới hoàn toàn phương thức quản lý, trong đó lấy hộ gia đình xã viên làm đơn vị kinh tế tự chủ. Người nông dân được giao đất, có nghĩa vụ nộp thuế và đóng góp vào các loại quỹ của HTX. Đây là giải pháp quan trọng tạo ra động lực mới cho người nông dân phấn khởi sản xuất. Tiếp thu nghị quyết của Bộ chính trị, theo sự chỉ đạo của Huyện ủy, Chi bộ Chế Là đã đề ra chủ trương vận dụng một cách cụ thể vào điều kiện của địa phương, tổ chức giao đất, giao rừng cho hộ nông dân và tiến hành đổi mới công tác tổ chức, thống nhất quy chế hoạt động. Làm cho người nông dân tin tưởng, phấn khởi huy động tất cả sức lao động của gia đình, chủ động thời gian đẩy mạnh tăng gia sản xuất, tích cực thực hiện các biện pháp khoa học kỹ thuật, thay giống lúa mới có năng xuất cao, nên sản lượng lương thực có hạt hàng năm tăng lên rõ rệt, đời sống nhân dân được cải thiện. Ngoài sản xuất lương thực, trồng trọt hoa màu cũng được mở rộng, chăn nuôi gia súc, gia cầm trong các hộ xã viên được chú ý phát triển.

Trong những năm đầu bước vào thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các tổ chức quần chúng luôn được chú trọng. Qua cuộc bầu cử Đại biểu HĐND, chi ủy đã lãnh đạo mạnh dạn đưa những người tiêu biểu, có khả năng đảm nhận nhiệm vụ vào những chức danh chủ chốt của Chính quyền xã. Từ đó, nâng cao một bước hoạt động của HĐND, UBND. Việc đổi mới bộ máy chính quyền ở xã là việc làm phù hợp với nhiệm vụ triển khai thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Từng bước làm cho quần chúng nhân dân thực hiện các quy định của Nhà nước, nhằm đảm bảo xây dựng cuộc sống văn hóa mới ở khu dân cư. Qua đổi mới bộ máy chính quyền, đã tổ chức động viên nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Từ năm 1986 đến năm 1991, thực hiện chủ trương của Huyện về công tác bảo vệ an ninh Tổ quốc, xã đã phát động thành phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc rộng khắp trong nhân dân. Qua phong trào, quần chúng nhân dân đã giúp chính quyền giải quyết nhiều vụ việc tiêu cực diễn ra trên địa bàn. Công tác văn hóa, y tế, giáo dục thường xuyên được củng cố. Đời sống văn hóa mới được xây dựng ở các thôn bản...

Trước những chuyển biến có tính tính cực, cơ bản, ngày .../3/1991, Chi bộ xã Chế Là tiến hành Đại hội để kiểm điểm, đánh giá kết quả mà chi bộ và nhân dân các dân tộc trong xã đã đạt được trong những năm đầu thời kỳ đổi mới của Đảng và chỉ ra những mặt hạn chế, yếu kém. Trên cơ sở đó, Đại hội đã thảo luận và đề ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ cho những năm tiếp theo đó là:

(Trình bày những mục tiêu, chỉ tiêu chính của văn kiện Đại hội chi bộ xã...)

Đại hội đã chỉ ra: “Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cơ bản đã được Đại hội thảo luận và biểu quyết cần có biện pháp tổ chức chỉ đạo thực hiện có hiệu quả”. Đại hội đã bầu Ban chi ủy gồm ... ủy viên. Đồng chí .... được bầu làm Bí thư chi bộ.

Thực hiện nghị quyết Đại hội, Chi bộ và chính quyền đã tổ chức vận động nhân dân áp dụng các biện pháp kỹ thuật vào sản xuất, như: cấy giống lúa, ngô mới, đảm bảo cung ứng vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu ... một cách kịp thời. Do đó, năng suất, sản lượng cây trồng đã tăng lên đảng kế (Tổng hợp một số kết quả đạt được trên một số lĩnh vực kinh tế - văn hóa - công tác xây dựng Đảng, chính quyền qua 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Chi bộ - Nguồn tư liệu theo báo cáo tổng kết các năm, hoặc văn kiện Đại hội chi bộ)......

Qua những thành tựu đạt được sau năm năm thực hiện nghị quyết Đại hội chi bộ  nhiệm kỳ 1991 - 1995, nhất là sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng, chi bộ và nhân dân các dân tộc Chế Là đã vượt qua mọi thử thách để giành được những thành tựu hết sức quan trọng: giải quyết cơ bản vấn đề an toàn lương thực; đảm bảo sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội; khẳng định đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng là đúng đắn và hợp lòng dân để từ đó kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để tiếp tục vững bước và tiếp tục sự nghiệp đổi mới của mình, Chi bộ Chế Là còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa nhằm tìm ra những giải pháp hợp lý phù hợp với điều kiện địa lý và xã hội ở địa phương, tìm ra những con đường để tạo ra sự phát triển vững chắc, lấy nông – lâm nghiệp làm mặt trận hàng đầu, nông thôn là địa bàn chiến lược trong ổn định xã hội và tăng trưởng kinh tế. Khuyến nông, tạo nguồn vốn, chú trọng xóa đói giảm nghèo, hạn chế gia tăng dân số cần được coi là những bộ phận cấu thành để đẩy nhanh quá trình giải phóng sức sản xuất nông nghiệp và tăng trưởng kinh tế ở nông thôn Chế Là. Chắc chắn bằng kinh nghiệp của gần 10 năm đổi mới, với tinh thần trách nhiệm và mục tiêu giàu mạnh cho quê hương, Chi bộ Chế Là còn đạt được nhiều thành tựu lớn lao hơn nữa trong bước đường đi tới.

Chương V

ĐẢNG BỘ XÃ CHẾ LÀ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN, ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1996-2010)

I- ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI, THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HÓA,  HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN, XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO (1996- 2000)

Mười năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, đất nước ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, chính trị giữ được ổn định; kinh tế liên tục tăng trưởng với tốc độ khá; đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, xã hội có nhiều tiến bộ rõ rệt.

Trong những thành tựu chung đó, có sự đóng góp của các ngành, các địa phương trong cả nước, trong đó có sự đóng góp của Đảng bộ và nhân dân xã Chế Là.

Bước vào năm 1996, năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội (1996 - 2000), toàn Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là đã sôi nổi phát động các phong trào hành động cách mạng sâu rộng hướng tới Đại hội Đảng các cấp. Tháng .. năm 1996, thực hiện chủ trương của Huyện ủy, Đảng bộ xã Chế Là tiến hành tổ chức Đại hội nhằm đánh giá kết quả lãnh, chỉ đạo của Đảng bộ trong 5 năm qua. Đại hội đã thảo luận, phân tích đánh giá tình hình và đề ra phương hướng, nhiệm vụ trong thời kỳ mới - thời kỳ toàn Đảng, toàn dân tiến hành thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (1996-2000). Nghị quyết Đại hội nêu rõ: Nhiệm vụ phát triển nông - lâm nghiệp là chính. Xác định mũi nhọn là phát triển cây ...; tập trung đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất; đẩy mạnh thâm canh tăng vụ; phát huy những thế mạnh, tiềm năng hiện có, nhất là nguồn lao động, đất đai, trí tuệ trong nhân dân; tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ của cấp trên để đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc. Phấn đấu đến năm 2000, tổng sản lượng lương thực đạt .....

Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1996 - 2000 có ý nghĩa tạo ra được những cơ sở rất cơ bản cho một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong quá trình đổi mới ở địa phương là nhiệm vụ quan  trọng, trọng tâm, gắn với việc phát huy những thành tựu, kinh nghiệm của 10 năm đổi mới, khắc phục những hạn chế còn tồn tại; phấn đấu từng bước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành mới gồm .... đồng chí, Ban thường vụ gồm ... đồng chí, đồng chí .... được bầu làm Bí thư Đảng ủy.

Sau Đại hội, Đảng bộ xã Chế Là đã tập trung chỉ đạo học tập quán triệt, triển khai nghị quyết vào cuộc sống. Đồng thời, tổ chức phát động nhiều phong trào hành động cách mạng hướng tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện lần thứ XIII, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh tỉnh lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Ngày 25/3/1996, Đảng bộ Huyện Xín Mần tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ XIII. Trên cơ sở tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong những năm 1996- 2000 là: Phát huy chủ động tập trung mọi nguồn lực, khai thác các tiềm năng, thế mạnh hiện có về đất đai, lao động, vốn, trí tuệ trong nhân dân, phấn đấu với quyết tâm cao để huy động thu hút các nguồn lực trong và ngoài huyện, nắm bắt thời cơ mới, tạo động lực phát triển lực lượng sản xuất, chuyển nền kinh tế từ tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng hóa, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng, vật nuôi, đẩy mạnh thâm canh tăng vụ, tăng hệ số sử dụng đất, phát triển cây có thế mạnh về kinh tế, cây công nghiệp ngắn ngày, mở rộng diện tích cây ăn quả, cây đặc sản, dược liệu quý. Huyện tích cực trồng, chăm sóc bảo vệ rừng, sớm hoàn thành việc giao đất, giao rừng. Mạnh dạn đầu tư vào việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, nuôi ong, thả cá… Duy trì và phát triển các nghề thủ công truyền thống, khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư các loại vật liệu xây dựng tại địa phương. Chú trọng đầu tư phát triển giao thông, thủy lợi, xây dựng cơ bản và bưu điện. Xây dựng một số cơ sở chế biến nông – lâm sản thực phẩm để tăng giá trị sản phẩm hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện nông, lâm – công nghiệp và dịch vụ. Mục tiêu cơ bản và lâu dài là tiến tới xây dựng huyện có cơ cấu kinh tế nông, lâm – công nghiệp, dịch vụ phát triển, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, y tế, nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và vận động quần chúng thực hiện tốt các chính sách xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, nâng cao cảnh giác cách mạng, chủ động chống âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tạo một bước phát triển mới cơ bản, chắc chắn vào sau năm 2000.

Đại hội đại biểu Đảng bộ Huyện Xín Mần lần thứ XIII là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội của Huyện, khẳng định sự đoàn kết thống nhất ý chí, quyết tâm của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong Huyện trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đại hội thành công có sự đóng góp một phần trí tuệ và nỗ lực của Đại hội Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là.

Kết quả thành công của Đại hội Đảng các cấp, những thành tựu quan trọng bước đầu đạt được sau 10 năm khắc phục những khó khăn, thực hiện đường lối đổi mới là nguồn động viên to lớn đối với Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là.

Quán triệt sâu sắc những quan điểm của Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh Hà Giang lần thứ XII (từ ngày 25-28/4/1996) về “tập trung mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tỉnh, có cơ cấu kinh tế, hợp lý, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đời sống nhân dân ngày càng được nâng lên” và Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII (họp từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996), về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà trọng tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và Nghị quyết của Đảng bộ Huyện Xín Mần về tập trung chuyển dịch cơ cấu kinh tế; phát triển công nghiệp địa phương, tiểu thủ công nghiệp, thủy điện nhỏ, xây dựng kết cấu hạ tầng, giáo dục và đào tạo, xóa đói giảm nghèo, xây dựng mương máng thủy lợi..., Ban Chấp hành Đảng bộ xã Chế Là đã khẩn trương xây dựng chương trình kế hoạch triển khai các nghị quyết, xác định nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo.

Kết quả sau 5 năm phấn đấu kiên trì, bền bỉ vượt qua những khó khăn, thử thách, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là đã giành được những thành tựu to lớn, từng bước đưa nền kinh tế của xã phát triển. Về sản xuất nông nghiệp, Đảng bộ đã xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm. Do vậy, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, tổ chức thực hiện tốt chủ trương của Huyện ủy về chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Đồng thời, tập trung mọi nỗ lực khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương, tranh thủ sự hỗ trợ của tỉnh, Huyện đẩy mạnh sản xuất. Do đó, tổng sản lượng lương thực có hạt tăng từ ..... tạ năm 1996 lên ..... tạ năm 2000. Bình quân lương thực đầu người năm 2000 đạt ... kg/người/năm (tăng ...kg so với năm 1996). Về chăn nuôi, đại gia súc hàng năm tăng ...%. Tính đến năm 2000, đàn trâu của xã có ... con. Đàn lợn có ... con. Ngoài ra các hộ gia đình còn phát triển chăn nuôi gia cầm... con. Với kết quả này, về sản xuất nông nghiệp năm 1996 - 2000, Chế Là cơ bản đạt được các mục tiêu chính do Đại hội Đảng bộ xã đã đề ra, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân.

Bên cạnh việc phát triển nông nghiệp, chăn nuôi, những năm 1996 - 2000 Đảng bộ đã chỉ đạo nhân dân các dân tộc trong xã mở rộng diện tích, tập trung vào nơi có đồi núi trọc để trồng các cây dược liệu, cây trè, cây đậu tương (cây có thế mạnh của xã), đến năm 2000 toàn xã đã có .... ha cây dược liệu và .... ha cây chè, trong đó có .... ha cây dược liệu và .... ha cây chè đã cho thu hoạch, tập trung ở các thôn: ..............................................., hàng năm triển khai cho nhân dân trồng và thu hoạch được .... tạ đậu tương.

Về lâm nghiệp, Đảng bộ xã đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ rừng. Do vậy, tình trạng phá rừng làm nương cơ bản đã giảm. Công tác giao đất, giao rừng của xã đã đạt ...% theo kế hoạch Huyện giao. Công tác chỉ đạo trồng rừng, khoanh nuôi nhằm tái sinh rừng và bảo vệ rừng đầu nguồn cũng được Đảng bộ thường xuyên quan tâm. Số diện tích trồng rừng mới tính đến năm 2000, xã đã trồng được ... ha.

Công tác giáo dục và đào tạo tiếp tục được củng cố, phát triển. Tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi đến trường hàng năm đạt ....%. Chất lượng giáo dục đã được nâng lên, tỷ lệ chuyển lớp, chuyển cấp đạt ..%. Các lớp xóa mù chữ và phổ cập tiểu học được duy trì thực hiện tốt. Cuối năm ...., xã đã được công nhận đạt tiêu chuẩn Quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học (Lưu ý: Toàn Huyện đến năm 2000, 100% các xã hoàn thành chương trình xóa mù chữ, phổ cập giáo dục Tiểu học).

Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được duy trì và hoạt động có hiệu quả. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy về triển khai thực hiện mô hình y tế thôn bản, Đảng bộ xã đã triển khai và thực hiện được ..../..... thôn, do vậy đã kịp thời chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân ngay tại cơ sở. Trạm y tế xã đã thường xuyên triển khai Chương trình y tế Quốc gia, hạn chế suy dinh dưỡng ở trẻ em ; không để xảy ra dịch bệnh lớn, số bệnh nhân mắc bệnh sốt rét hàng năm đều giảm; số trẻ em được tiêm chủng phòng ngừa 6 bệnh và uống Vitamin A ngày càng tăng. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đã giảm. Tuy vậy, vẫn chưa đạt được mục tiêu của Đại hội Đảng bộ xã đã đề ra.

Các hoạt động văn hóa, văn nghệ - thể dục, thể thao ngày càng được phát triển, đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc từng bước được cải thiện. Toàn xã có ...% số hộ được xem truyền hình và ...% số hộ được nghe đài tiếng nói Việt Nam. Các thôn: .... đã thành lập được đội văn nghệ quần chúng, mỗi năm tổ chức giao lưu văn nghệ giữa các thôn được 1-2 lần, góp phần nâng cao đời sống tinh thần và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

Công tác xây dựng Đảng luôn được xác định là nhiệm vụ then chốt. Đảng bộ rất chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, thông qua việc quán triệt thực hiện các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạnh, tinh thần yêu nước cho nhân dân bằng các hoạt động tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn, các phong trào đền ơn đáp nghĩa. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, cảnh giác đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Do vậy, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, những khó khăn thách thức của đất nước, tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã vẫn giữ vững, ổn định.

Công tác xây dựng, củng cố tổ chức và phát triển Đảng viên, được Đảng bộ thường xuyên quan tâm. Hàng năm, nhiều quần chúng ưu tú của các dân tộc được kết nạp vào Đảng. Đến năm 2000, Đảng bộ xã đã xóa xong số thôn bản trắng đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ xã lên .... đồng chí. Năm ...., Đảng bộ xã đạt danh hiệu là Đảng bộ trong sạch, vững mạnh.

Về công tác xây dựng chính quyền, năm 1999 thực hiện chủ trương của Huyện ủy về lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, nhiệm kỳ 199 - 2004, Chi bộ xã Chế Là đã lãnh đạo và triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả cuộc bầu cử. Hội đồng nhân dân xã, nhiệm kỳ 1999 - 2004 đã bầu đồng chí ..... làm chủ tịch Hội đồng nhân dân, đồng chí ..... được bầu làm chủ tịch UBND xã. Chi bộ thường xuyên lãnh đạo xây dựng, củng cố chính quyền, coi trọng công tác cán bộ, nâng cao năng lực quản lý điều hành của cán bộ, chính quyền cơ sở nhằm tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng của địa phương, đạt mục tiêu nghị quyết của Chi bộ và nghị quyết của HĐND xã đề ra.

Về công tác tổ chức quần chúng tiếp tục không ngừng được củng cố về tổ chức, đổi mới về phương thức hoạt động. Những năm qua, MTTQ và các đoàn thể quần chúng thường xuyên giáo dục cho đoàn viên, hội viên thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước và các quy ước của địa phương. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện các cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa. Các phong trào của Hội nông dân, Hội phụ nữ làm kinh tế giỏi, phong trào thanh niên lập nghiệp diễn ra sôi nổi, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội mà nghị quyết Đại hội Chi bộ đã đề ra.

Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Chế Là rất tự hào về những thành tựu đạt được. 5 năm 1996 - 2000, Chi bộ xã đã lãnh đạo toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, luôn xác định được chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ trọng tâm, đề ra các bước đi thích hợp với điều kiện cụ thể của địa phương, thường xuyên động viên nhân dân đẩy mạnh các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện nghiêm túc công tác tập trung dân chủ trong lãnh đạo, kịp thời uốn nắn những lệch lạc, tháo gỡ những khó khăn, tạo điều kiện cho cán bộ và nhân dân, luôn củng cố hệ thống chính trị toàn diện. Đồng thời Đảng ủy đã tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các cấp ủy cấp trên, sự giúp đỡ của các ngành, các cấp để xây dựng quê hương ngày càng phát triển.

Thực hiện chủ trương của Ban thường vụ Huyện ủy về tổ chức Đại hội Đảng các cấp theo tinh thần chỉ thị số 54-CT/TW của Bộ chính trị, ngày .../.../2000 Đảng bộ xã Chế Là đã tiến hành Đại hội nhằm đánh giá kết quả đạt được 5 năm 1999 - 2000 trên tất cả các lĩnh vực, các chỉ tiêu cơ bản. Hầu hết các mục chỉ tiêu kinh tế - xã hội đều đạt được mục tiêu đề ra. Trong 5 năm 1996 - 2000, giá trị tổng sản lượng lương thực đã đạt ....%, lương thực bình quân đầu người đạt ....%, cây chè là một trong những mũi nhọn của xã, đạt sản lượng .....%; chăn nuôi bình quân hằng năm tăng ...%; số hộ đói nghèo giảm xuống còn ...%.

Những thành tựu đạt được trong phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã dần làm thay đổi diện mạo của xã. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng tình hình, cụ thể hóa các định hướng cơ bản của Đảng trong giai đoạn 2001 - 2005, Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ của Đảng bộ trong 5 năm 2001 - 2005 là: (trích dẫn mục tiêu tổng quát của văn kiện Đại hội)....................................

Đại hội đã đề ra các chỉ tiêu cơ bản và giải pháp cụ thể trên các lĩnh vực phù hợp với đặc điểm, tình hình của xã.

- Về mục tiêu phấn đấu đến năm 2005:

(trích dẫn các chỉ tiêu chủ yếu trong văn kiện Đại hội Đảng bộ xã).

Đại hội đã bầu ra BCH khóa mới gồm ... đồng chí; Ban thường vụ gồm .... đồng chí. Đồng chí ... được bầu làm Bí thư Đảng ủy.

Phương hướng, nhiệm vụ và chỉ tiêu, các giải pháp chủ yếu được Đại hội xác định là cơ sở căn bản cho sự phát triển vững chắc trong thời kỳ mới. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Chế Là sẽ phát huy nội lực, tận dụng tối đa nguồn ngoại lực, yếu tố thuận lợi bên ngoài để tạo ra những bước phát triển toàn diện, sâu sắc hơn trong những năm tiếp theo, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân ta thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

                II- ĐẢNG BỘ, NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ CHẾ LÀ TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (2001 – 2010)

Bước vào thế kỷ XXI, nước ta đứng trước những thời cơ lớn đan xen với những thách thức lớn. Sau 15 năm cùng cả nước thực hiện công cuộc đổi mới, Chế Là từng bước có nhiều đổi thay. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương cũng đặt ra những yêu cầu, trách nhiệm lớn trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành trên các lĩnh vực của xã.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban thường vụ Huyện ủy về tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng theo tinh thần chỉ thị số 46-CT/TW, ngày 6/12/2004 của Bộ chính trị, ngày .../.../.... Đảng bộ xã Chế Là tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XV. Với tinh thần “Đoàn kết – Dân chủ - Đổi mới – Phát huy nội lực – Phát triển bền vững”, Đại hội nghiêm túc đánh giá những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005; ra Nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ 5 năm 2005- 2010; thảo luận, thông qua Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia vào các dự thảo Văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng; bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa mới, nhiệm kỳ 2005- 2010.

Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005, Đại hội khẳng định: Qua 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XIV của Đảng bộ và kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, các mục tiêu và nhiệm vụ cơ bản đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đúng hướng. Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển, đảm bảo được an ninh lương thực; thương mại và dịch vụ có bước phát triển; cơ chế thị trường dần dần được hình thành đồng bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được đầu tư xây dựng, phát huy hiệu quả được nhân dân đồng tình ủng hộ. Sự nghiệp giáo dục y tế, thể dục, thể thao, văn hóa có bước phát triển quy mô và chiều sâu. Trình độ dân trí được nâng lên. Việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân có nhiều tiến bộ, đời sống văn hóa, tinh thần được cải thiện. Lao động và các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết có hiệu quả. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo được toàn dân hưởng ứng. Tổ chức cơ sở Đảng và hệ thống chính trị được củng cố và xây dựng ngày càng vững mạnh, khối đại đoàn kết các dân tộc được phát huy, lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền được nâng lên, chính trị xã hội được ổn định, quốc phòng, an ninh giữ vững. Kết quả cụ thể trên một số lĩnh vực như sau:

Trong phát triển kinh tế, Đảng bộ luôn xác định việc phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, có tác dụng thúc đẩy, hỗ trợ các hoạt động khác. Do đó đã tiếp tục tập trung đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đẩy mạnh việc triển khai các cây trồng có thế mạnh của xã. Trong 5 năm 2001 - 2005 về sản xuất nông, lâm nghiệp: Tổng sản lượng lương thực đạt 1.107,9 tấn vượt 29,7 tấn so với KH, tăng 376,7 tấn so với năm 2000. Lương thực bình quân tính theo đầu người đạt 420 kg/người/năm (vượt 76 kg theo KH), sản lượng đậu tương 105,2 tấn (100% kế hoạch), sản lượng chè búp tươi 70 tấn (100% kế hoạch). Các cây rau, đậu, khoai tây đều phát triển. Diện tích trồng thảo quả 40ha, cây ăn quả là 10h. Diện tích trồng cỏ chăn nuôi đạt 3,7 ha. Trồng rừng mới 29 ha.

Về chăn nuôi, vận dụng cơ chế, chính sách của tỉnh, Huyện về cho nông dân vay vốn mua trâu, bò, dê hàng hóa và trồng cỏ để phát triển chăn nuôi, Đảng bộ xã đã triển khai chỉ đạo thực hiện có hiệu quả chương trình. Năm 2005, tổng đàn gia súc đạt 3.070 con, tăng 1.981 con so với năm 2000.

Về xây dựng kết cấu hạ tầng có bước phát triển. Đến nay, trụ sở xã, trạm y tế, trường học đều khang trang hơn; 13/13 thôn bản có đường cấp phối 3m đến Trung tâm xã; hệ thống điện lưới quốc gia đến nhiều hộ gia đình. Đặc biệt, trong xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” có nhiều kết quả tích cực, đã có 70 hộ gia đình có bể nước ăn sinh hoạt; 5 thôn (thôn Gì Thàng; Thôn Cốc Đông; Thôn Cốc Cang; Thôn Đản Điêng; Thôn Cùm Phinh) đã có công trình nước sạch hợp vệ sinh...

Công tác giáo dục và đào tạo của xã đã từng bước phát triển tiến bộ, hệ thống trường lớp được mở rộng với 24 lớp, 464 học sinh (năm học 2000-2001), đến năm học 2004- 2005 đã có 27 lớp, 635 học sinh. Tỷ lệ huy động học sinh trong độ tuổi từ 6- 14 tuổi đến trường năm học 2000- 2001 là 96%, năm học 2005- 2006 đạt 98%, vượt kế hoạch Đại hội đề ra. Đồng thời, thường xuyên duy trì tốt công tác xóa mù chữ - Phổ cập giáo dục tiểu học. Năm 2000, tổng số cán bộ, giáo viên là 29 người, đến năm 2005, tăng thêm 5 cán bộ, giáo viên, nâng tổng số cán bộ, giáo viên là 35 người. Cơ sở vật chất trường lớp đã từng bước được đầu tư và ngày càng khang trang hơn, trường Tiểu học của xã đã được xây dựng và hoàn thiện đưa vào sử dụng.

Về công tác y tế - dân số, kế hoạch hóa gia đình tiếp tục có bước phát triển. Đã thường xuyên chú trọng đến việc khám chữa bệnh cho nhân dân, thực hiện tốt chương trình y tế quốc gia. Tăng cường cơ sở vật chất cho công tác khám chữa bệnh. Thực hiện tốt công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên đến năm 2005 xuống còn 2,1%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 30% năm 2005. Đồng thời, thường xuyên quan tâm chăm lo đến các đối tượng chính sách, những người già cô đơn không nơi nương tựa, những người tàn tật trên địa bàn...; công tác xóa đói giảm nghèo tiếp tục được triển khai rộng khắp, nhiều chương trình xóa đói, giảm nghèo được xã chỉ đạo sát sao và tổ chức thực hiện với quyết tâm cao với những biện pháp cụ thể. Thực hiện chủ trương của Huyện ủy thông qua các đề án xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2001- 2005 chính sách hỗ trợ hỗ nghèo như: trợ giá giống lúa, ngô, phân bón, hỗ trợ xóa nhà tạm, hỗ trợ kéo điện cho hộ, hỗ trợ xây dựng bể nước ăn…, các nguồn vốn của Trung ương qua các chương trình, như: Chương trình 135 được đầu tư cho các xã đặc biệt khó khăn, xây dựng kết cấu hạ tầng: điện, đường, trường, trạm. Các công trình được hoàn thành đưa vào sử dụng, góp phần giải quyết những vấn đề thiết yếu, phát huy hiệu quả kinh tế - xã hội. Được sự hỗ trợ của Trung ương, tỉnh, huyện cùng với sự nỗ lực của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã, tỷ lệ hộ nghèo từ ......% (năm 2000) xuống còn 17% (năm 2005) theo tiêu chí cũ,......

Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao có nhiều nội dung và hình thức phong phú, từng bước đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị trọng tâm và các ngày lễ, hội của xã; khơi dậy và giữ gìn nền văn hóa truyền thống mang đậm nét bản sắc văn hóa dân tộc. Tỷ lệ số hộ được xem truyền hình đạt ....%. Tỷ lệ số hộ được nghe đài Tiếng nói Việt Nam đạt ....%. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được tiếp tục triển khai và đẩy mạnh. Đến năm 2005, xã đã có .... làng đạt tiêu chuẩn làng văn hóa. Các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, cải thiện đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân.

Công tác quốc phòng - an ninh luôn được quan tâm. Công tác giáo dục quốc phòng, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng được thực hiện rộng rãi; chăm lo xây dựng lực lượng quân sự địa phương vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; hàng năm, lực lượng quân sự được bổ sung; xây dựng các phương án chiến đấu; công tác tổ chức huấn luyện, diễn tập đạt kết quả tốt; việc tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu do cấp trên giao. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Công tác xây dựng Đảng luôn được Đảng bộ xác định là nhiệm vụ then chốt, cần tập trung thực hiện tốt, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức, quan tâm làm tốt công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo nhân dân hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương; luôn giữ vững đoàn kết và thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; chú trọng xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.

Công tác chính trị, tư tưởng đạt nhiều kết quả tích cực. Nhiệm vụ giáo dục truyền thống, học tập, nghiên cứu, quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy và Huyện ủy đều được Đảng bộ tổ chức triển khai và thực hiện nghiêm túc, đẩy mạnh, từ năm 2001- 2005, kết quả hàng năm trên 90% tổng số đảng viên và quần chúng nhân dân được tiếp thu các chỉ thị, nghị quyết của Đảng.... Quá trình xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng luôn gắn chặt việc thực hiện các nội dung Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa IX) và Quy định 76 của Bộ Chính trị, do đó, cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc trong xã luôn tin tưởng tuyệt đối với sự lãnh đạo của Đảng và đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng, đa số đảng viên không vi phạm về đạo đức, lối sống.

Đảng bộ thường xuyên chăm lo củng cố hệ thống tổ chức Đảng. Đến năm 2005, toàn Đảng bộ có 14 chi bộ dưới Đảng ủy, tăng 11 chi bộ so với năm 2000. Trong 5 năm (2001- 2005), Đảng bộ đã đề nghị Đảng bộ cấp trên và tổ chức kết nạp được 49 đảng viên mới đạt .....% kế hoạch, đưa tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 82 đồng chí. Qua đánh giá phân loại đảng viên hằng năm, những năm 2001- 2005, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ là  60 đồng chí, chiếm ...%, đảng viên hoàn thành nhiệm vụ 19 đồng chí, chiếm .....%, đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ là 2 đồng chí (không xếp loại), chiếm ....%; tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh là 8 chi bộ, chiếm ....%, đạt loại khá 6 chi bộ, chiếm .....%; không có chi bộ đạt loại yếu kém.

Trong công tác cán bộ, Đảng bộ đã làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ. Từ năm 2001 đến năm 2005, xã đã cử 19 đồng chí đi học lý luận chính trị trình độ sơ và trung cấp; 5 đồng chí tham gia bồi dưỡng bí thư chi bộ giỏi, trong đó có 1 đồng chí đi thi tại Huyện.... Đồng thời, chuẩn bị nhân sự bầu Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp trên địa bàn và chỉ đạo cuộc bầu cử Quốc hội khóa XI tại địa phương đạt kết quả tốt.

Về công tác kiểm tra, giám sát được Đảng bộ thường xuyên chú trọng và tăng cường, hàng năm đều có chương trình kế hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào việc kiểm tra tổ chức Đảng, đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước; Đảng bộ xã đã thực hiện kiểm tra tổ chức cơ sở đảng và đảng viên được 10 cuộc; tổ chức kiểm tra theo Điều 30 của Điều lệ Đảng được 5 chi bộ.

Công tác vận động quần chúng có nhiều chuyển biến tích cực, Đảng bộ vận động quần chúng vượt qua những khó khăn, đoàn kết phấn đấu thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, củng cố quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở tiếp tục được triển khai sâu rộng và thực hiện tốt trong các cơ quan đơn vị và cơ sở, phát huy quyền làm chủ của nhân dân các dân tộc trên địa bàn tham gia vào việc xây dựng Đảng, chính quyền, giám sát các hoạt động của các cơ quan, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nhà nước trên địa bàn, ngăn chặn và đẩy lùi các hiện tượng suy thoái về đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu.

Tháng 4-2004, thực hiện chủ trương của huyện về tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp, Đảng bộ xã đã lãnh chỉ đạo và tổ chức tốt cuộc bầu cử Đại biểu HĐND. Tại kỳ họp thứ nhất Hội đồng nhân dân xã khóa ....., nhiệm kỳ 2004- 2011, Đồng chí ..... được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, đồng chí ..... được bầu giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã. Sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân xã, bộ máy chính quyền của xã tiếp tục được củng cố và ổn định. Đã có nhiều đổi mới về phương thức và nội dung hoạt động, đúng theo luật định. Chất lượng các kỳ họp của Hội đồng nhân dân xã ngày càng được nâng cao, nhất là thảo luận và quyết định các nhiệm vụ kinh tế - xã hội sát với thực tế của địa phương; thực hiện có hiệu quả, thiết thực hoạt động giám sát theo luật định, phát huy được vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Đại biểu Hội đồng nhân dân xã đã được nâng cao một bước về năng lực hoạt động, tích cực thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc với cử tri, truyền đạt và vận động nhân dân các dân tộc trong xã thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Hội đồng nhân dân, tiếp thu ý kiến của cử tri để phản ánh với Đảng bộ và chính quyền xã xem xét, giải quyết.

Ủy ban nhân dân xã tiếp tục có sự tiến bộ về thực hiện cải cách hành chính, thực hiện chủ trương của Trung ương, tỉnh và Huyện, xã đã thành lập được bộ phận nhận và trả kết quả theo cơ chế “một cửa”, đồng thời làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, nâng cao phương thức quản lý và điều hành; chấp hành tốt việc tổ chức thực hiện nghị quyết của cấp ủy, của Hội đồng nhân dân xã, đổi mới về cách làm việc, tăng cường chỉ đạo cơ sở, duy trì tốt quy chế họp ủy ban nhân dân, thực hiện nền nếp giao bao hằng tháng, kịp thời nắm bắt tình hình và điều kiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng trên địa bàn.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng nhân dân luôn được củng cố về tổ chức bộ máy và nhân sự thông qua đại hội nhiệm kỳ của Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến binh, Hội Nông dân, Liên đoàn lao động. Phương thức hoạt động không ngừng được đổi mới, nhiều phong trào được tổ chức và nhân dân đã hưởng ứng, thực hiện có hiệu quả. Phong trào quần chúng có nhiều tiến bộ mới trong thi đua thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội (xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, xây dựng các công trình đại đoàn kết, đẩy mạnh phong trào giúp nhau xóa đói, giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư), tích cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, không di dịch cư tự do, không học đạo, theo đạo trái pháp luật; tiếp tục vận động phong trào thực hiện chương trình “5 không, 7 việc xây dựng thôn, bản vững mạnh, bình yên”[9] gắn với xây dựng Đảng, chính quyền ngày càng vững mạnh. Các chương trình hành động, kế hoạch công tác của các cấp chính quyền và đoàn thể đã chuyển tải được những chủ trương, nghị quyết quan trọng của cấp ủy. Sự phối hợp giữa cấp ủy, chính quyền và các thành viên của Mặt trận chặt chẽ và thống nhất hơn trong việc triển khai tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị lớn của địa phương. Đồng thời, phối hợp với các ngành liên quan của Huyện triển khai nhiều biện pháp tích cực trong việc chống truyền đạo trái pháp luật trên địa bàn.

Bên cạnh những kết quả, thành tựu đạt được sau 10 năm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chặng đường 20 năm đỏi mới, đặc biệt là những thành tựu đạt được qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội .... của Đảng bộ, vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế, khó khăn nhất định, đó là: Tình hình kinh tế - xã hội của xã còn nhiều khó khăn, do xuất phát điểm thấp. Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, quy mô nhỏ. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa diễn ra chậm. Chất lượng hoạt động văn hóa chưa cao. Việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật còn chậm. Phong tục tập quán lạc hậu chậm được khắc phục, tệ nạn xã hội có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp, tình hình truyền đạo, học đạo trái pháp luật giải quyết chưa dứt điểm. Hoạt động của Chính quyền và các tổ chức đoàn thể chính trị của xã còn yếu kém, khuyết điểm. Trình độ mọi mặt của cán bộ, đảng viên còn thấp chưa đáp ứng với tình hình mới. Một số tổ chức cơ sở đảng dưới Đảng ủy còn hạn chế về chất lượng sinh hoạt đảng…

Trong những nguyên nhân của khó khăn hạn chế trên cơ sở tác động của yếu tố khách quan như tình hình kinh tế - xã hội chung cả nước còn khó khăn, thiên tai liên tiếp xảy ra, dịch bệnh ở đàn gia súc, gia cầm xảy ra liên tiếp, giá cả một số mặt hàng tăng cao. Song, nguyên nhân chủ quan đó là chưa phát huy yếu tố nội lực cho tập trung phát triển kinh tế, tính năng động, sáng tạo của một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa cao, chưa tạo được bước đột phá mạnh mẽ cho phát triển kinh tế. Việc tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo quản lý của cấp ủy, chính quyền chưa tốt, còn chung chung; việc học tập các kinh nghiệm hay, các mô hình kinh tế, các điển hình sản xuất kinh doanh giỏi còn yếu, v.v..

Trên cơ sở phân tích sâu sắc những ưu, khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã lần thứ ...., phân tích nhận định những thuận lợi, khó khăn của tình hình thế giới và trong nước những năm tiếp theo, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XV đề ra phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2005- 2010 với chủ đề “Ổn định, đoàn kết, nâng cao dân trí, xóa đói giảm nghèo, phát triển vững chắc”, 5 năm tới Đảng bộ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện  các chỉ tiêu, mục tiêu chủ yếu là:

1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm là 12%;

2. Sản xuất lương thực đạt 1.127,6 tấn, tăng 19,7 tấn so với năm 2005. Lương thực bình quân đầu người đạt 500kg/người/năm.

3. Thu nhập bình quân đầu người 4,5 triệu đồng/người/năm trở lên.

4. Tỷ lệ trẻ trong độ tuổi 6-14 tuổi đến trường đạt 98,6%. Hoàn thành phổ cập trung học cơ sở vào năm 2006. Đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục THCS.

5. 70% các thôn có điện lưới Quốc gia; xã có nhiều điện thoại; các thôn có trụ sở thôn bản;

6. Hạ tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,7%;

7. Không còn hộ đói, nghèo (theo tiêu chí cũ)

8. Xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, không có chi bộ yếu kém.

9. Giữ vững an ninh, trật tự.

Để đạt được các chỉ tiêu, mục tiêu trên Đại hội đã nêu lên một số giải pháp chủ yếu, đó là:

Về phát triển kinh tế, tiếp tục thực hiện chủ trương mở rộng diện tích cây trồng, tăng thời vụ nhằm tăng năng suất bình quân. Phấn đấu đến năm 2010, năng suất bình quân cây lúa đạt 40 tạ/ha, sản lượng đạt 107,6 tấn; cây ngô, năng suất đạt 19,2 tạ/ha, sản lượng đạt 522 tấn; đậu tương, diện tích đạt 170 ha, năng suất đạt 10 tạ/ha; cây chè, diện tích 70 ha, sản lượng chè búp tươi đạt 150 tấn; trồng cỏ chăn nuôi đạt 28 ha; Thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ và phát triển rừng, phấn đấu đến năm 2010 trồng mới được 5 vạn cây sa mộc; Trong công nghiệp giao thông xây dựng, tiếp tục duy trì và sản xuất phát triển tiểu thủ công nghiệp, sản xuất chè, mây tre. Tập trung thi công các công trình thủy lợi, giao thông, xây dựng điểm trường, phấn đấu đến năm 2010, toàn xã có 7 thôn có đường ô tô đến thôn bản. Trong thương mại và dịch vụ, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế tham gia phát triển thương mại, dịch vụ để phát triển kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân. Tăng cường vai trò thương mại quốc doanh, đảm bảo các mặt hàng, chính sách thiết yếu, thu mua, tiêu thụ các mặt hàng nông sản cho nhân dân. Xây dựng điểm bưu điện văn hóa xã, phát triển thuê bao dịch vụ điện thoại, đảm bảo thông tin liên lạc. Tạo điều kiện phát triển thị trường khu vực trung tâm xã.

Về văn hóa - xã hội, đến năm 2010, xã có 98,8% số cháu từ 6- 14 tuổi đến trường học tập. Giữ vững kết quả đạt chuẩn Quốc gia về xóa mù chữ - Phổ cập giáo dục tiểu học. Thực hiện kế hoạch phổ cập giáo dục THCS, phấn đấu đến năm 2006, xã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS. Xây dựng và phát triển nội trú dân nuôi, tạo điều kiện cho con em các dân tộc trong xã được đi học; thực hiện tốt công tác kiểm tra giáo viên tại các phân trường để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng; từng bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, nâng cao chất lượng dạy học. Trong công tác y tế, dân số, gia đình và trẻ em, xã tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế Quốc gia, tăng cường công tác phòng bệnh, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân; làm tốt công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, phấn đấu giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên xuống còn 1,7%; thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rôgj, phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 26%. Trong văn hóa, thông tin - thể thao, tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia thực hiện nếp sống văn minh, xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa. Phấn đấu đến năm 2012, xã có 11 thôn đạt tiêu chí làng văn hóa, trong đó 3 thôn đạt cấp tỉnh; thường xuyên duy trì các hoạt động văn nghệ, thể dục, thể thao, tổ chức các giải thi đấu văn nghệ, thể thao. Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ cho các gia đình thương binh, liệt sỹ. Không còn hộ đói nghèo đến năm 2010 theo tiêu chí cũ.

Về quốc phòng, an ninh, tiếp tục làm tốt công tác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nắm chắc tinh thần, xử lý kịp thời diễn biến xảy ra trên địa bàn. Tăng cường nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; thực hiện tốt công tác phòng thủ khu vực, đảm bảo ổn định chính trị, tăng cường công tác quốc phòng. Thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, chính quyền. Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, công tác tuần tra các thôn, bản. Xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân vững chắc.

Xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đổi mới. Quan tâm làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; chú trọng phát triển cán bộ người địa phương, cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Phấn đấu đến năm 2010, cán bộ xã có trình độ chuyên môn và trình độ lý luận chính trị đạt 20% trở lên. Tiếp tục nâng cao chất lượng cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần nghị quyết TW6 (lần 2) gắn với thực hiện nghị quyết TW5 (khóa IX) về đổi mới nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh toàn diện. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, xử lý kịp thời, nghiêm minh các trường hợp vi phạm chủ trương, đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tạo niềm tin cho quần chúng nhân dân đối với Đảng.

Về xây dựng chính quyền, tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý điều hành của chính quyền. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của HĐND đối với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương; Đổi mới và nâng cao chất lượng các kỳ họp của HĐND, nâng cao chất lượng hiệu quả tiếp xúc cử tri, nhằm cụ thể hóa nghị quyết của các cấp ủy Đảng vào thực tiễn. Tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục phổ biến pháp luật, tăng cường pháp chế. Kịp thời giải quyết tốt đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, giữ vững kỷ cương, thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ, cải cách hành chính.

Về Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, nâng cao chất lượng của Mặt trận tổ quốc và các thành viên. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự phối hợp giữa chính quyền với MTTQ và các thành viên. Chăm lo xây dựng tổ chức MTTQ và các đoàn thể ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao chất lượng các phong trào, tích cực phát triển đoàn viên, hội viên, nâng cao trình độ, bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho các đoàn viên, hội viên...

Đại hội đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ 2005- 2010, phát huy những yếu tố thuận lợi, nỗ lực vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa ...., nhiệm kỳ 2005- 2010 gồm .... đồng chí, Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí ............... được bầu làm Bí thư Đảng ủy. Đồng chí ...... được bầu làm Phó bí thư Đảng ủy.

Thực hiện chủ trương, Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, nhiệm kỳ 2005 - 2010, nhất là nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện khóa XV và nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa ...., các mục tiêu nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2005- 2010 cơ bản đã được cụ thể hóa thành các chương trình công tác trọng tâm của xã để chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Trên cơ sở đó, Đảng bộ xã đã ban hành và triển khai tổ chức thực hiện một số chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về một số lĩnh vực, như: nghị quyết về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở xã; nghị quyết về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên giai đoạn 2007 - 2012; triển khai xây dựng các Chương trình hành động, cụ thể chương trình phát triển “rừng và cây chè”, chương trình hành động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo chủ đề các năm từ 2007 - 2010 gắn với đẩy mạnh thực hiện các công trình mang tên “Đại đoàn kết”,... Qua việc triển khai, tổ chức thực hiện trong 5 năm 2006 - 2010, kết quả cho thấy: Trong 5 năm (2005-2010) mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song với sự nỗ lực, đoàn kết, phấn đấu vươn lên của Đảng bộ và nhân dân trong xã nền kinh tế - xã hội của xã tiếp tục có bước phát triển, nhiều chỉ tiêu thực hiện đạt và vượt nghị quyết Đại hội XV đã đề ra; công tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng lên...

..................(Kết quả cụ thể trên từng lĩnh vực: Kinh tế, văn hóa - xã hội; quốc phòng - an ninh; xây dựng Đảng - chính quyền: Nghiên cứu Báo cáo chính trị trình Đại hội XVI của Đảng bộ xã).

Thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TW, ngày 4-8-2009 của Bộ Chính trị (khóa X) và sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy về Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Đảng bộ xã đã ban hành chỉ thị số 07-CT/ĐU, ngày 29/10/2009 để lãnh chỉ đạo các chi bộ dưới Đảng ủy triển khai và tổ chức thực hiện. Ngay sau khi các chi bộ dưới Đảng ủy tổ chức thành công Đại hội Chi bộ, ngày ...-...-2010, Đảng bộ xã Chế Là tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2010 – 2015. Chủ đề của Đại hội là: Đoàn kết - Dân chủ - Đổi mới - Phát huy nội lực - phát triển bền vững”. Đại hội đã đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XV nhiệm kỳ 2005 – 2010 và đề ra các nhiệm vụ trọng tâm trong kế hoạch 5 năm 2011 – 2015; thông qua Báo cáo tổng hợp các ý kiến đóng góp vào dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng cấp trên và Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ xã lần thứ XVI.

...........(Đánh giá khái quát kết quả đạt được sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội XV, gồm mặt đạt được, hạn chế; đưa ra các chỉ tiêu chủ yếu, các giải pháp thực hiện có trong nghị quyết Đại hội Đảng bộ xã khóa XVI)

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ khóa XVI, nhiệm kỳ 2010 - 2015 gồm .... đồng chí. Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa XVI, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã bầu Ban Thường vụ Huyện ủy gồm .... đồng chí và đồng chí Ly Văn Long được bầu giữ chức Bí thư Đảng ủy, các đồng chí Chẩn Trung Đức, .... được bầu làm Phó bí thư Đảng ủy.

Những thành tựu mà Chế Là đạt được trong 5 năm 2006 - 2010 thể hiện sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của toàn Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong xã. Những thành tựu đó là nguồn động lực to lớn để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã tiếp tục giành được nhiều thành tích to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương phát triển ngày càng vững mạnh.

 

PHẦN 3

KẾT LUẬN

Sáu mươi ba năm qua (1949 - 2012) dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, Đảng bộ và nhân dân xã Chế Là đã vượt qua mọi khó khăn thử thách, giành được một số thành tích đáng kể trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tiễu phỉ (1945 - 1954). Đánh thắng giặc mỹ xâm lược (1955 - 1975). Bảo vệ biên giới Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng giầu đẹp, văn, minh. Trải qua các thời kỳ lịch sử Đảng bộ xã Chế Là đã vận dụng linh hoạt chủ trương đường lối của trung ương đảng, tỉnh uỷ, huyện uỷ hoàng su phì, vào hoàn cảnh cụ thể vào địa phương, làm thay đổi bộ mặt của xã nhà, từ đói nghèo vươn lên thành giầu có. Hạ tầng cơ sở được xây dựng khang trang đẹp đẽ. Đảng bộ và nhân dân Chế Là trưởng thành về mọi mặt, luôn giữ vững kỷ cương phép nước, khắc phục những sai lầm khuyết điểm. Nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình, xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh.

Thực tiễn phong trào cách mạng ở Chế Là luôn phát triển sôi động và giành được những thành tựu là do trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện, Đảng bộ xã đã luôn kịp thời rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu, đó là:

1. Phải xây dựng Đảng bộ luôn luôn trong sạch vững mạnh. Có  trong sạch vững mạnh đảng bộ mới có đủ năng lực lãnh đạo toàn dân thực hiện đúng chủ trương chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước.

Cán bộ, đảng viên luôn bám sát cơ sở vận động quần chúng tham gia tạo thành phong trào cách mạng rộng khắp. Luôn giữ thế chủ động, kể cả khi phong trào tạm lắng xuống, cán bộ trung kiên vẫn bám trụ tạo được niềm tin tưởng của nhân dân đối với đảng, chính phủ thường xuyên giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Có kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt và thanh niên. Xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng vững mạnh đủ sức quản lý xã hội, đoàn kết nhất trí trong đảng bộ.

2. Phải làm tốt công tác vận động quần chúng. làm tốt công tác dân vận, tuyên truyền giải thích cho đồng bào hiểu rõ chính sách dân tộc của đảng, tạo ra sự bình đẳng, đoàn kết tương trợ lẫn nhau. Cán bộ, đảng viên luôn bám dân, giữ dân, gương mẫu lôi quấn quần chúng không cho địch xuyên tạc chính sách của Đảng và Nhà nước. Giữ gìn sự đoàn kết giữa các dân tộc đồng thời phải nghiêm trị những phần tử phá hoại; kiên quyết chống lại việc lợi dụng tôn giáo làm những điều trái pháp luật phá hoại chính quyền nhân dân. 

3. Phải kết hợp chặt chẽ giữa hình thức đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.

Song song với công tác giáo dục, tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng; không ngừng nâng cao khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang ở trong xã, quan tâm xây dựng củng cố hậu phương vững trắc.

4. Nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, phát huy truyền thống cách mạng.

Việc đẩy mạnh, áp dụng khoa học công nghệ hiện đại đều phải căn cứ vào khả năng thực tế của địa phương, dựa vào nguồn lực của địa phương là chính để phát triển kinh tế. Vừa đầu tư vào các lĩnh vực có thể khai thác phát huy nhanh có hiệu quả. xây dựng cơ sở hạ tầng, kết hợp xây dựng kinh tế với phát triển văn hoá - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng toàn dân xây dựng cuộc sống bình yên.

5. Trong quá trình đổi mới để đi đến thành công, đảng bộ Chế Là phải tìm tòi các giải pháp, các bước đi thích hợp với hoàn cảnh thực tế ở địa phương. Muốn vậy, Đảng uỷ xã phải tổng kết thực tiễn, điều tra, nghiên cứu lắng nghe ý kiến của đảng viên và nhân dân, để qua đó đánh giá đúng thực trạng về mọi mặt của địa phương. Đảng bộ cần được tăng cường, củng cố và phát triển để ngang tầm với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới với thời đại.

Đảng bộ và nhân dân xã Chế Là, đã viết lên trang sử vẻ vang và có quyền tự hào, tin tưởng vào đảng bộ ngày càng phát triển, vững mạnh, nhằm phát huy truyền thống tốt đẹp vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

 

ẢNH CÁC ĐỒNG CHÍ BÍ THƯ HUYỆN UỶ XÍN MẦN

TỪ NĂM 1965 ĐẾN NAY

Đ/c Hoàng Ngọc Lâm

Bí thư Huyện uỷ đầu tiên

(giai đoạn 1965 - 1973

Đ/c Nguyễn Văn Chữ

Bí thư Huyện uỷ

(giai đoạn 1973 – 1979)

Đ/c Mông Văn Ấn

Bí thư Huyện uỷ

(giai đoạn 1979 – 1988)

Đ/c Nông Quang Lù

Bí thư Huyện uỷ

(giai đoạn 1989-1999)

Đ/c Lê Trọng Lập

Bí thư Huyện uỷ

(giai đoạn 1999-2001)

Đ/c Hoàng Ngọc Tường

Bí thư Huyện uỷ

(giai đoạn 2001-2003)

Đ/c Lê Quang Minh

Bí thư Huyện uỷ

(giai đoạn 2003 – 2009)

Đ/c Dương Minh Hoà

Bí thư Huyện uỷ

(Từ 2009 đến nay)

DANH SÁCH

CÁC ĐỒNG CHÍ CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN

 HUYỆN XÍN MẦN (1965- 2010)

1- Lò Quáng Hòa (Chủ tịch lâm thời năm 1965- 1966)

2- Nguyễn Văn Chữ ( Chủ tịch từ năm 1966- 1973)

3- Hứa Phúc Cảm (Chủ tịch từ năm 1973- 1976)

4- Mông Văn Ấn (Chủ tịch từ năm 1976- 1979)

5- Vương Tiến Chi (Chủ tịch từ năm 1979- 1982)

6- Nông Quang Lù (Chủ tịch từ năm 1982- 1988)

7- Đoàn Đình Thi (Chủ tịch từ năm 1989 - 1996)

8-  Đàm Văn Bông (Chủ tịch từ năm 1997 – 2000)

9- Long Hữu Phúc (Chủ tịch từ năm 2001 – 2004)

10- Nguyễn Văn Mão (Chủ tịch từ năm 2004 – 2005)

11- Dương Minh Hoà (Chủ tịch từ năm 2005 – 2009)

12- Hà Xuân Bình (Chủ tịch từ năm 2009 đến nay)

MỤC LỤC

                                                                                                    Trang         

Lời giới thiệu

Chương mở đầu

HUYỆN XÍN MẦN

5

I- Điều kiện tự nhiên

5

II- Tình hình xã hội

9

Chương I

ĐẢNG BỘ HOÀNG SU PHÌ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC TRONG HUYỆN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1945- 1965)

14

I- Tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền thành lập chi bộ đảng ở Hoàng Su Phì (1945- 1947)

14

II- Kháng chiến chống thực dân Pháp và việc thành lập các cơ sở đảng ở vùng Xín Mần (1947-1954)

26

III- Cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng bộ huyện Xín Mần được thành lập (1954-1965)

58

Chương II

ĐẢNG BỘ XÍN MẦN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN VỪA XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VỪA TÍCH CỰC THAM GIA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1965- 1975)

I- Đảng bộ Xín Mần lãnh đạo nhân dân chuyển từ thời bình sang thời chiến, góp phần cùng cả nước đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ (1965 - 1968)

90

II- Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất, góp phần đánh thắng chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ (1969 - 1972)

108

III- Đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, tích cực chi viện cho miền Nam (1973- 1975)

136

Chương III

ĐẢNG BỘ VỚI NHIỆM VỤ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC VỪA SẢN XUẤT VỪA CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG CỦA TỔ QUỐC (1975- 1985)

149

I- Chăm lo đời sống, củng cố sức mạnh của tổ chức

149

II- Vừa chiến đấu bảo vệ biên giới vừa sản xuất

162

Chương IV

ĐẢNG BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÍN MẦN THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG

(1986-1995)

193

I- Thực hiện đường lối đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội (1986- 1990)

193

II- Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện xoá đói, giảm nghèo (1991 - 1995)

214

Chương V

ĐẢNG BỘ XÍN MẦN LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN, ĐẨY MẠNH SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG (1996-2010)

233

I- Đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xoá đói, giảm nghèo (1996 -2000)

233

II-  Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế - xã hội (2001 - 2010)

263

Kết luận

314

 

[1] Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Khoa học xã hội, 1971, Hà Nội, tập IV, tr. 321.

[2] Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương xuất bản năm 1997, tr. 385-386.

1. Xem Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.77.

[4] Xem Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Giang, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.1, tr.77.

[5] 9 đảng viên gồm có: Nguyễn Tiến Lộc, đồng chí Hà, đồng chí Thanh (thoát ly), Lò Seo Vu, Thào Seo Sài, Lò Seo Chúng, Ma Seo Sì, Lò Seo Lở, Giàng Seo Chú (đảng viên người địa phương).

[6] Trâu, ngựa vận chuyển được 2.091.913 tấn/km xe các loại vận chuyển được 267.081 tấn/km.

[7] Gồm các xã: Bản Máy, Bản Pắng, Bản Phùng, Nàn Sỉn, Bản Díu, Thèn Phàng, Xín Mần, Cốc Pài, Nàn Ma, Bản Ngò, Nấm Dẩn, Chế Là, Cốc Rế, Chí Cà, Pà Vầy Sủ, Thu Tà, Ngán Chiên, Tả Nhìu.

[8] Năm 1968, huyện lỵ Xín Mần chuyển về xã Cốc Pài.

[9] - Nội dung cụ thể của chương trình mục tiêu “5 không, 7 việc” của Ban thường vụ Huyện ủy Xem lịch sử Đảng bộ Huyện tái bản, bổ sung, trang 284, NXB Chính trị Quốc gia. HN, năm 2011.


Tin khác